
rồng này sẽ phá tường bay lên mà thôi”. Đám người nghe vậy đều không tin, họ khẩn khoản mời Trương Tăng Dao vẽ thêm mắt để xem rồng có thật sự bay lên hay không. Trước yêu cầu của mọi người, Trương Tăng Dao đành phải cầm bút vẽ mắt cho rồng. Nhưng Trương Tăng Dao vừa mới vẽ mắt cho hai con rồng thì trời bỗng mưa to gió lớn, sấm chớp đùng đùng, sau đó bỗng nghe “Ầm” một tiếng rồi bức tường nứt ra. Mọi người nhìn kỹ thì thấy hai con rồng trắng này đã vút lên bay vờn trong đám mây rồi bay thẳng lên trời. Còn hai con rồng chưa vẽ mắt kia thì vẫn nằm nguyên trên tường. Đến lúc này mọi người mới tin là thực. Đương nhiên đây chỉ là truyền thuyết mà thôi.
(25) Hoành thánh: nguyên văn là hồn đồn, theo Lạc Việt thì đây là món hoành thánh hoặc vằn thắn. Theo baike thì đây là món mì truyền thống của vùng phương Bắc Trung Quốc, dùng vỏ ngoài bằng bột mì bọc nhân, nấu chín ăn cùng canh. Nguyên liệu chủ yếu gồm có thịt heo, thịt tôm, rau cải, hành, gừng, bột mì. Còn gọi là vân thôn (nuốt mây!!!), biển thực (há cảo), thanh thang.
Mình thì mình ăn vằn thắn rồi, nhưng mình thấy tả thế này thì giống sủi cảo hơn. Còn món hoành thánh thì mình chưa ăn, vì mình là người Bắc, ngoài Hà Nội cũng không có mấy quán có món này nên không dám nhận xét.
Đây là hồn đồn (hay wonton):
Còn đây là hoành thánh:
Xem ảnh thấy có vẻ hoành thánh nhiều nhân hơn là hồn đồn rồi
(28) Huyền Vũ: nguyên gốc là Quy Xà, nhưng mình để là Huyền Vũ cho quen thuộc với mọi người. Hình dạng khởi thủy của Huyền Vũ là con “vũ” màu đen, với Vũ là một linh vật kết hợp của rắn và rùa. Đây là linh vật rất cổ của Trung Hoa. Trong truyền thuyết về tổ của người Trung Quốc, Phục Hi là Tổ phụ, Nữ Oa là Tổ mẫu, thì Phục Hi có hình rắn, Nữ Oa có hình rùa. Sự kết hợp giữa rắn và rùa cho thấy một totem cổ đại từ xa xưa, tượng trưng cho sự Trường Tồn và Sức Mạnh. Hình tượng Huyền Vũ có liên quan mật thiết đến một vị thần có vị trí rất cao trong Đạo giáo là Huyền Thiên Trấn Vũ đại đế, ông còn các danh xưng khác: Thượng đế tổ sư, Đãng ma thiên tôn, Hỗn nguyên giáo chủ, Bắc cực huyền linh đại đế. Ông có 2 con vật thiêng là Linh Quy và Thần Xà, tượng trưng cho sự trường tồn và trí tuệ. Vì vậy chữ “Vũ” trong “Huyền Vũ” ở đây với nghĩa là “sức mạnh” gồm cả rùa và rắn.
(29) Trích bài thơ “Bả tửu vấn nguyệt” (nâng ly rượu hỏi trăng) của Lý Bạch.
Bản dịch âm tiếng Hán:
Thanh thiên hữu nguyệt lai kỷ thì,
Ngã kim đình bôi nhất vấn chi!
Nhân phan minh nguyệt bất khả đắc,
Nguyệt hành khước dữ nhân tương tuỳ.
Kiểu như phi kính lâm đan khuyết,
Lục yên diệt tận thanh huy phát
Đãn kiến tiêu tòng hải thượng lai,
Ninh tri hiểu hướng vân gian một.
Bạch thố đảo dược thu phục xuân,
Thường nga cô thê dữ thuỳ lân.
Kim nhân bất kiến cổ thì nguyệt,
Kim nguyệt tằng kinh chiếu cổ nhân.
Cổ nhân kim nhân nhược lưu thuỷ,
Cộng khan minh nguyệt giai như thử.
Duy nguyện đương ca đối tửu thì,
Nguyệt quang thường chiếu kim tôn lý.
Bản dịch thơ (của Hoa Sơn):
Trăng kia đến tự thuở nào?
Nay ta ngưng ly rượu đào hỏi trăng!
Người không vin được trăng vàng,
Trăng cùng người mãi dặm ngàn có đôi.
Gương trăng vút tận cõi trời,
Trăng tan khói biếc, rạng ngời muôn nơi.
Biển đêm người thấy trăng soi,
Đâu hay mai sớm trăng côi tạ từ.
Thỏ còn giã thuốc xuân, thu,
Hằng Nga đơn bóng thẩn thờ gió mây.
Vầng trăng cổ tích ai hay?
Trăng này từng chiếu mấy đời cổ nhân.
Người xưa nay, tựa nước nguồn
Đã từng chung ngắm trăng non một thời
Ta say ca hát rượu mời
Mong vầng trăng toả sáng soi chén vàng.
(30) Đây là “Liễu Nghị truyện” do Lý Triều Uy sáng tác vào đời Đường. Truyện có thể tóm tắt như sau: Liễu Nghị là một nho sinh thi trượt, trên đường gặp một thiếu phụ chăn dê xinh đẹp nhưng dáng vẻ tiều tụy. Người phụ nữ ấy nói rằng mình là con gái của Long Vương ở hồ Động Đình, vốn lấy con trai thứ của Kinh Xuyên, nhưng bị bạc đãi, bắt đi chăn dê, nên muốn nhờ Liễu Nghị chuyển thư đến cho cha để báo tình cảnh của mình. Liễu Nghị đem thư xuống Long Cung. Em trai Long Vương là Tiền Đường giận quá nên giết con trai của Kinh Xuyên, cứu cháu về, rồi định gả cho Liễu Nghị. Nghị từ chối, xin về, được Long Vương ban cho nhiều vàng bạc châu báu. Sau Liễu Nghị lấy vợ, lần nào lấy xong vợ cũng chết. Con gái Long Vương thấy vậy bèn nhớ lại duyên cũ, muốn báo đáp bèn hóa làm người con gái xinh đẹp mà lấy Liễu Nghị làm chồng. Sau hai vợ chồng đều thành tiên.
(31) Trang Sinh mộng điệp: hay Trang Chu mộng hồ điệp, là tên một đoạn văn trong sách Trang Tử của Trung Quốc. Đoạn văn này rất nổi tiếng, nó đã trở thành một điển tích thường được dùng trong văn chương xưa ở Trung Quốc và Việt Nam.
Bản Hán Việt: “Tích giả Trang Chu mộng vi hồ điệp, hủ hủ nhiên hồ điệp dã. (Tự dụ thích chí dư!) bất tri Chu dã. Nga nhiên giác, tắc cừ cừ nhiên Chu dã. Bất tri Chu chi mộng vi hồ điệp dư? (Chu dữ hồ điệp tắc tất hữu phân hĩ). Thử chi vị vật hóa”.
Bản dịch của dịch giả Nguyễn Hiến Lê: “Có lần Trang Chu nằm mộng thấy mình hóa bướm vui vẻ bay lượn, mà không biết mình là Chu nữa, rồi bỗng tỉnh dậy, ngạc nhiên thấy mình là Chu. K