
ỉ là chép lại mà thôi, cũng không thể làm xong quá sớm, đành đứng bên cửa sổ giả vờ nghĩ một lúc. Ta không ham mấy thứ danh hão, nhưng thích nhìn nữ tử tài hoa mỹ mạo, cho nên cũng thích thi xã. Hương chuẩn bị tàn, ta mới chép bài thơ đã học thuộc lòng ra giấy.
Bốn người viết xong, Bảo Ngọc nói Đạo Hương lão nông xem là công bằng nhất, nên để nàng chấm. Mọi người cũng đồng ý, trước tiên xem bài của Thám Xuân:
“VỊNH HOA HẢI ĐƯỜNG TRẮNG
Cỏ lướt bên ngoài lúc xế chiều
Tạnh mưa xanh ngắt chậu đầy rêu.
Ngọc pha vẻ quý người khôn đọ,
Tuyết trắng màu da bụng đã xiêu
Nhị ngát hoa khoe chiều ẽo ợt,
Canh khuya trăng gợn bóng treo leo.
Cảo tiên này bảo đừng bay vội,
Vịnh cảnh hoàng hôn dãi tấm yêu.”
Rồi đến bài của Bảo Thoa:
“Cửa khép vì hoa khép suốt ngày,
Tưới hoa bình nước sẵn cầm tay.
Phấn son rửa sạch thềm thu nọ,
Băng tuyết vời về bực móc đây.
Lạt thếch hoa càng thêm được vẻ,
Buồn tênh ngọc cũng phải chau mày.
Muốn dâng Bạch đế màu trong trắng,
Lẳng lặng chờ đây lúc xế tây.”
Bảo Ngọc viết:
“Lặng lẽ trời thu dọi cửa lầu,
Bảy cành chụm lại tuyết pha mầu.
Thái Chân ra tắm làn băng nuột,
Tây tử ngồi nhăn nét ngọc sầu.
Gió sớm khôn tan ngàn mối hận
Mưa đêm lại đọng mấy dòng châu.
Lan can đứng dựa lòng man mác,
Sáo thổi chầy deo khéo cợt nhau.”
“Đại Ngọc” là:
“Lơ lửng rèm tương cửa khép hờ,
Đất băng chậu ngọc, khéo xinh chưa.
Lê đầy nhị trắng đành vay ngọt,
Mai sẵn hồn thơm cứ mượn bừa.
Cõi nguyệt tiên may tay áo trắng,
Buồng thu khách gạt hạt châu sa.
Ngượng ngùng biết ngỏ cùng ai nhỉ?
Gió lạnh đêm mờ đứng ngẩn ngơ.”
Mọi người xem xong, đều nói bài này hay hơn cả, Lý Hoàn nói: “Về tình tứ phong lưu thì bài này hơn, nhưng về hàm súc hồn hậu thì vẫn phải nhường cho Hành Vu quân.” Thám Xuân nói: “Lời bình rất đúng, Tiêu Tương phi tử phải đứng thứ hai.” Lý Hoàn lại nói: “Di Hồng công tử phải chịu cuối bảng, có phục hay không?” Bảo Ngọc đáp: “Thơ tôi vốn không tốt, đương nhiên chịu.”
Thơ dù sao cũng không phải của ta, cho nên các nàng muốn luận thế nào thì luận, ta không để ý lắm.
Mọi người bàn bạc ngày họp mặt kế tiếp, rồi đặt tên thi xã là “Hải đường xã”, xong mới tan hội.
Ta chỉ thấy, nữ tử nơi này quả nhiên phong lưu tài hoa, cư nhiên trong một nén nhang liền xuất khẩu thành thơ, khiến ta thán phục không thôi.
Bảo Ngọc chính là loại người không náo nhiệt không chịu được, thấy bọn chị em mở thi xã, vẫn thiếu Tương Vân, lập tức liền không thoải mái, hôm sau quấn quýt lấy lão thái thái, đòi đón nàng đến chơi. Lão thái thái đương nhiên không còn cách nào khác, đành sai người hôm sau đến đón Tương Vân. Ta cũng cao hứng, nàng biết chuyện thi xã, lập tức đòi xem những bài thơ làm lần trước.
Mọi người bắt nàng cũng phải làm một bài, nếu hay, sẽ cho vào, còn không, sẽ phạt nàng mời một bữa rượu rồi mới nói chuyện. Tương Vân nói: “Các người đã quên mời tôi, tôi chưa trách các người đâu, lấy vần hạn ra đây, tôi tuy không tài cán gì, nhưng cũng tình nguyện làm xấu mặt một phen. Nếu cho tôi vào hội, thì dù là quét nhà hay thắp hương tôi cũng làm.”
Mọi người cười ầm, Tương Vân cũng không nghĩ nhiều, lập tức viết ra hai bài:
I
“Hôm nọ thần tiên xuống cửa thành,
Lam điền trồng ngọc chậu xinh xinh
Sương Nga tính vẫn hay ưa lạnh,
Thiếu nữ lòng đâu nỡ dứt tình.
Tuyết ở nơi nào thu kéo lại,
Mưa từ đêm trước ngấn in rành,
Nhà thơ vui nhỏ, ngâm tràn mãi,
Nỡ để chiều hôm cảnh vắng tanh.”
II
“Thềm cỏ thông sang cửa tiết la
Này tường này chậu đẹp bao là.
Hoa vì thích sạch thành trơ trọi,
Người những thương thu dễ ngẩn ngơ.
Giọt lệ khô theo cây đuốc ngọc,
Rèm tình soi suốt bóng gương nga.
Nỗi riêng muốn ngỏ cùng dì Nguyệt,
Thềm vắng đêm mờ đã chán chưa!”
Mọi người đọc xong, mỗi người một câu, khen ngợi không thôi. “Thơ này mới đáng là thơ vịnh hải đường chứ! Thực đúng với tên hội là “Hải Đường xã”.
Tương Vân muốn hôm sau sẽ làm chủ nhà mời tiệc rượu, mọi người đồng ý, lại cùng nàng bàn luận một hồi những bài thơ hôm trước. Buổi tối, bệnh của ta đã tái phát nhiều ngày, liền bảo Tương Vân sang Hành Vu Uyển của Bảo Thoa nghỉ ngơi.
Ngày thứ hai, Tương Vân mời lão thái thái đến thưởng hoa, lão thái thái thấy nàng cao hứng, liền dẫn Vương phu nhân và Phượng tỷ đến vui cùng. Yến hội mở tại Ngẫu Hương tạ, Bảo Thoa đã chuẩn bị rượu và điểm tâm, còn có rất nhiều cua lớn. Hoá ra đến mùa cua rồi hay sao? Kiếp trước ta thích nhất là ăn cua, từ lúc đến đây ít có dịp ăn. Vì dù ở Lâm gia hay Giả phủ, đều rất chú ý ẩm thực dưỡng sinh, cho nên những đồ ăn có tính lạnh như tôm, cua ít được dùng.
Ăn một chốc, lão thái thái thấy mệt, liền về trước. Trước khi đi còn không quên dặn Tương Vân: “Đừng để Bảo ca ca và Lâm tỷ tỷ ăn nhiều, sẽ bị đau bụng.” Tương Vân dạ một tiếng, còn quay sang lè lưỡi với ta, ta chỉ cười cười tiễn lão thái thái.
Chờ chúng ta trở về, Tương Vân liền lấy ra thi đề, dùng kim ghim lên tường.
“Thứ nhất là ức cúc (nhớ cúc)
Thứ hai là phỏng cúc (tìm cúc)
Thứ ba là chủng cúc (trồng cúc)
Thứ tư là đối cúc (ngắm cúc)
Thứ năm là cung cúc (hái cúc