
hăng nhưng tính tình cao ngạo, đương nhiên chẳng thèm hứa
hão rồi.” Dứt lời, nàng phất tay cởi trói cho nó. “Khi nào có việc tao
sẽ tìm mày, còn hàng ngày nếu không muốn gặp tao, mày cứ tùy ý bay lượn, miễn đừng ra khỏi phạm vi Ngọc sơn.”
Nó sắp vỗ cánh bay đi, lại nghe Tây Lăng Hành nói: “Mày không phải Lang điểu, cũng chẳng phải
phượng hoàng, mày chỉ là mày thôi, trong thiên hạ này, mày là độc nhất
vô nhị, tao tạm gọi mày là Liệt Dương[4'> nhé, nếu sau này mày có cơ
duyên tu thành người, có thể tùy ý đổi tên khác vậy.”
[4'> Liệt: lẫm liệt, mạnh mẽ. Dương: Thái dương, dương khí. (ND)
Liệt Dương đứng ngây ra như đang ngẫm ngợi lời nàng, Tây Lăng Hành liền cầm
lấy một cành đào, viết lên mặt đất hai chữ: “Liệt Dương”.
Lang điểu chăm chắm nhìn hai chữ “Liệt Dương” trên mặt đất hồi lâu rồi vỗ cánh bay đi.
Tây Lăng Hành khẽ thở dài, lắc đầu than cùng A Tệ, “Nó quật cường ghê, loài chim vốn ưa bay nhảy tự do, vậy mà vẫn kiên nhẫn được hơn một trăm
ngày! Thiếu chút nữa ta đã mềm lòng, định viết thư cho Xi Vưu, xin hắn
đồng ý để ta thả nó ra rồi.”
A Tệ nhếch mép cười, ánh mắt lấp lánh niềm vui.
A Tệ là hồ ly, giống vật thông minh nhất trong muông thú, lại lớn lên
giữa Ngọc sơn tràn trề linh khí, ăn đào tiên, uống ngọc tủy, được Tây
Lăng Hành rèn giũa, tuy chẳng thể nói tiếng người nhưng cũng lanh lợi
không kém một đứa trẻ.
Tây Lăng Hành hớn hở chạy về phòng, “Ta
phải viết thư cho Xi Vưu, nếu hắn thấy Liệt Dương đưa thư tới hắn sẽ
giật nảy mình, tò mò không biết tại sao ta lại thuần phục được nó nhanh
thế cho xem. Mày nói ta có nên kể cho hắn chuyện ta cam kết với Liệt
Dương không? Hay là đừng kể vội, cứ để hắn tò mò nhé!”
Liệt Dương quả rất giữ lời, nghe tiếng Tây Lăng Hành gọi, nó liền bay tới ngay.
Gửi gắm bức thư cho Liệt Dương xong, nàng còn quàng vào cổ nó một ống trúc
đựng đầy ngọc tủy đã chuẩn bị trước, khiến nó tưởng đó là quà cáp mà
nàng sai nó chuyển, nào ngờ, Tây Lăng Hành dặn dò: “Cái này để mày uống, khỏi phải ăn những thứ linh tinh, mày bay nhanh, chắc một ngày thì tới
nơi, Xi Vưu nhận thư sẽ cởi nó ra hộ mày.”
Liệt Dương vỗ cánh
lặng lẽ bay ra ngoài cửa sổ. Quả nhiên nó bay nhanh như chớp, thoáng cái đã mất hút, chỉ còn chiếc chuông gió dưới hiên nhà khẽ ngân những tiếng tinh tang.
Tây Lăng Hành ngồi vào bàn, chống cằm ngắm chuông gió, hai má ửng hồng.
Trên Ngọc sơn này, năm năm tháng tháng hoa như cũ, tháng tháng năm năm thần
tiên vẫn hệt xưa, nhưng dưới Ngọc sơn kia xuân qua thu đến, thu hết xuân về, ba mươi năm đằng đẵng, lại đã đến tiệc Bàn Đào.
Để chuẩn bị cho tiệc Bàn Đào, Vương Mẫu đã chế ra rất nhiều cung nữ gỗ phục vụ, trong cung chợt náo nhiệt hẳn lên.
Tây Lăng Hành thấy hay hay cũng bắt chước học làm gỗ. Vương Mẫu dạy nàng
rằng trước tiên phải nhỏ máu tươi trong tim vào để người gỗ có sinh khí, rồi mới dùng linh lực điều khiển chúng làm việc. Làm người gỗ không
khó, cái khó là điều khiển chúng, đừng nói tới máu tươi trong tim nối
liền với huyết mạch của mình, mà linh lực cần thiết cũng quá lớn, thần
tiên bình thường khó mà chịu đựng nổi. Kể cả Vương Mẫu nếu chẳng có Ngọc sơn dồi dào linh khí, nếu không phải những người gỗ đó theo hầu hạ bên
mình thì bà cũng chẳng điều khiển nổi nhiều người gỗ như thế.
Vương Mẫu trêu Tây Lăng Hành: “Sắp tới được gặp mặt rồi, khỏi phải viết thư nữa, thích quá nhỉ?”
Tây Lăng Hành ngẩn người, như mừng như tủi, cúi gằm mặt xuống.
Vương Mẫu lắc đầu cười.
Đột nhiên Tây Lăng Hành ngẩng lên hỏi: “Vương Mẫu trước kia đâu có tổ chức
tiệc Bàn Đào, từ khi Người làm Vương Mẫu mới đặt ra quy củ, cứ ba mươi
năm bày tiệc Bàn Đào một lần, hao tổn rất nhiều tâm sức, chẳng rõ vị
thần tiên hay yêu quái mà Người muốn gặp đã tới chưa?”
Vương Mẫu bỗng biến sắc, người gỗ đang làm dở trên tay rơi xuống đất, cung nữ bưng trà trong phòng vỡ tan thành tro bụi.
“Đừng tưởng ta ăn nói tử tế với ngươi, ngươi lại quên khuấy đây là đâu nhé,
coi chừng ta giam ngươi thêm một trăm hai mươi năm nữa đấy!”
Nói rồi Vương Mẫu đùng đùng tức giận giũ áo đi thẳng, đám cung nữ cũng nín
thinh, chỉ mình Tây Lăng Hành ngoảnh sang cười vụng với A Tệ: “Sao ta
lại thấy thinh thích lão yêu bà này nhỉ?”
Tiệc Bàn Đào khai mạc, anh hùng các nơi theo thường lệ đều tụ họp đông đủ.
Thấy sứ giả lần này của tộc Hiên Viên là Tứ ca Xương Ý, Tây Lăng Hành rất
vui, theo lý lần trước Xương Ý đã tới rồi, lần này không được đi nữa,
nhất định là vì nàng nên Tứ ca mới cố nài nỉ phụ vương tranh thủ đến
Ngọc sơn.
Tiếc rằng cả tộc Thần Nông chỉ cử mình Cộng Công tới dự yến.
Cộng Công nhận tội với Vương Mẫu, “Nhị vương cơ bệnh nặng qua đời, Viêm Đế
đau buồn quá độ mà thành bệnh, các quan lại chức dịch trong tộc đều
không dám rời Viêm Đế nên chỉ có mình vãn bối tới dự yến.”
Vương Mẫu đưa Cộng Công một giỏ đào tiên, sai hắn mang về cho Viêm Đế, “Giúp
ta chuyển lời chia buồn với Viêm Đế, khuyên ngài cố nén đau thương.”
Cộng Công thi lễ rồi cung kính lui ra, Vương Mẫu đứng bên vách núi đăm đắm
nhìn biển mây mờ mịt, dáng vẻ cô độc mà bi thương khôn xiết, cứ đứng như vậy c