
qua. Gương mặt cô sáng lên dưới ánh trăng. Rồi, tay cô vuốt ve từ cổ qua vú và lần xuống hông tôi. “Hãy còn hai dòng nữa.”
Cô ngồi dậy còn tôi nằm ngửa ra. Mấy đêm rồi tôi thấy rất nóng nực, nhưng giờ đây, trần truồng, dưới ánh trăng, mà tôi lại thấy như có một ngọn lửa nóng hơn bất kỳ thứ gì ông Trời có thể giáng xuống con người trong vòng tuần hoàn bốn mùa đang thiêu đốt từ bên trong.
Tôi buộc mình phải tập trung khi tôi đoán ra cô định viết chữ đầu tiên vào đâu. Cô lùi xuống cuối giường và đặt chân tôi lên lòng cô. Cô bắt đầu viết lên mắt cá chân trái của tôi ngay bên trên mép vải của đôi dép ngủ bằng lụa đỏ. Khi cô viết xong, cô quay sang mắt cá chân phải của tôi. Cứ thế, cô viết lên chân này rồi lại chuyển sang chân kia, luôn viết phía trên chỗ bó. Đôi bàn chân của tôi - phần thân thể phải chịu bao đớn đau và khổ sở, và cũng là vẻ đẹp cũng như niềm tự hào của tôi - râm ran cảm giác dễ chịu. Chúng tôi đã là lão đồng của nhau tám năm rồi, nhưng chưa khi nào gần gũi nhau đến thế. Khi cô viết xong: “Ngẩng đầu tôi nhìn thấy trăng sáng.”
Tôi hăm hở giúp cô trải nghiệm những gì tôi vừa cảm nhận được. Tôi nắm đôi “gót sen ba tấc” của cô trong tay, rồi đặt lên đùi tôi. Tôi chọn những chỗ mà tôi thấy là nhạy cảm nhất: chỗ hõm nông giữa xương mắt cá và phần bắp chân. Tôi viết lên đó, một chữ có nghĩa là, cúi đầu. Bên chân kia tôi viết chữ tôi.
Tôi xoay chân cô lên và viết một chữ lên bắp chân cô. Rồi tôi dịch lên một điểm ở mặt dưới của đùi trái, phía trên đầu gối. Hai chữ cuối tôi viết dịch lên chút nữa trên đùi cô. Tôi cúi thấp xuống để tập trung viết hai chữ đó nắn nót nhất. Tôi thổi nhẹ vào những nét chữ, biết cảm giác nó tạo ra sẽ thế nào, và nhìn nhúm lông giữa hai đùi cô khẽ phất phơ.
Sau đó, chúng tôi cùng nhau ngâm cả bài thơ.
Đầu giường ánh trăng rọi.
Tôi ngỡ đó là những hạt sương li ti của buổi sớm mùa đông.
Ngẩng đầu tôi nhìn thấy trăng sáng.
Cúi đầu tôi nhớ tới quê hương(1)
Chúng tôi đều biết bài thơ này viết về một nhà thơ trên đường ngao du bốn phương chợt nhớ về cố hương, nhưng đêm đó và mãi mãi về sau, tôi vẫn tin rằng nó viết về chúng tôi. Tuyết Hoa là quê hương của tôi, và tôi là quê hương của cô.
HÔM SAU, MỸ NGUYỆT TRỞ VỀ NHÀ, chúng _tôi lại trở lại làm việc. Mấy tháng trước, nhà chồng tương lai của chúng tôi đã Chọn Ngày cho đám cưới của chúng tôi, cùng với những món quà đầu tiên trong lễ vật xin cưới chính thức - thịt lợn và bánh kẹo nhiều hơn, cùng những chiếc thùng gỗ rỗng để đựng của hồi môn chúng tôi tự tay làm lấy. Cuối cùng, và cũng là quan trọng nhất, họ gửi vải đến.
Tôi đã kể với bạn rằng mẹ và thím tôi may quần áo cho cả nhà, và giờ đây Mỹ Nguyệt và tôi đều thông thạo việc dệt vải. Nhưng khi tôi nghĩ về những gì chúng tôi làm ra thì cụm từ cây nhà lá vườn xuất hiện trong đầu tôi. Bông là do bố và chú trồng, việc thu hoạch là do những người phụ nữ trong gia đình đảm nhiệm, sáp ong dùng để tạo kiểu và thuốc nhuộm để nhuộm vải thành màu chàm mà chúng tôi dùng rất dè sẻn vì chúng tôi phải tiết kiệm.
Khác với thứ vải chúng tôi tự dệt lấy, tôi có thể so sánh đồ cưới của mình với vải may áo khoác, quần dài và khăn trùm đầu của Tuyết Hoa, vốn thường được may từ những loại vải đẹp và thêu hoa văn công phu lên bộ quần áo kiểu cách tân thời. Một trong những bộ quần áo Tuyết Hoa mặc hồi đó mà tôi thích nhất may bằng vải màu chàm. Kiểu trang trí phức tạp của mảnh vải chàm và kiểu cắt may của chiếc áo khoác đẹp hơn bất cứ bộ quần áo nào những người đàn bà có chồng ở Phủ Vĩ có thể có hay làm ra được. Tuy vậy, Tuyết Hoa mặc nó thoải mái cho đến khi nó bắt đầu phai màu và sờn rách. Điều tôi muốn nói là loại vải và kiểu cắt của nó khiến tôi nảy ra một ý định. Tôi muốn may cho mình những bộ quần áo phù hợp để mặc hàng ngày ở Thông Khẩu.
Nhưng xấp vải bông gia đình nhà chồng gửi cho tôi như một phần của đồ thách cưới đã thay đổi tất cả những dự định của tôi. Nó thật mềm mại, trơn tru, kiểu mẫu phức tạp và nhuộm màu chàm đậm được người Dao xem là loại đắt giá. Với món quà này, tôi nhận ra rằng tôi còn có nhiều điều phải học hỏi và vươn tới, nhưng ngay cả loại vải bông này cũng không thể so sánh được với lụa. Loại lụa mang đến cho tôi không chỉ rất tốt mà còn có màu sắc hoàn hảo. Màu đỏ không chỉ dành cho ngày cưới, mà còn dành cho các dịp lễ lạt, lễ mừng Năm Mới, và những dịp lễ hội khác. Màu tía và màu xanh lục, cả hai thường dành cho người vợ trẻ. Màu xanh xám của bầu trời trước cơn bão và xanh lục ngả xám của chiếc ao ở thôn mùa hạ dành cho khi tôi đã trở thành một mệnh phụ, và sau đó là một góa phụ. Màu đen và xanh đen dành cho những người đàn ông trong gia đình chồng. Một vài tấm là lụa trơn, còn những tấm khác được dệt với họa tiết hình song hỷ, hoa mẫu đơn, hay những đám mây.
Những súc vải lụa và vải bông gia đình chồng tôi gửi sang không được đưa cho tôi để tôi làm gì tùy thích. Chúng được dùng để chuẩn bị của hồi môn cho tôi, cũng như Mỹ Nguyệt và Tuyết Hoa dùng những món quà của họ để chuẩn bị của hồi môn cho mình. Chúng tôi phải làm các bộ chăn mền, bao gối, giày và quần áo