
đủ dùng cho cả đời, vì đàn bà người Dao tin rằng họ sẽ không nên nhận thêm bất cứ thứ gì của nhà chồng. Chăn mền! Để tôi kể cho các bạn nghe về những thứ này! Công việc làm chăn quả là chán ngắt và nóng nực. Tuy nhiên, vì mọi người tin rằng mình càng mang được nhiều chăn về nhà chồng thì sẽ càng có nhiều con, nên chúng tôi cố làm càng nhiều càng tốt.
Việc bọn tôi thích làm là khâu giày. Chúng tôi khâu giày cho chồng, cho mẹ chồng, bố chồng và tất thảy mọi người trong gia đình chồng, bao gồm cả anh, chị, em chồng và những đứa con của họ. (Thật may mắn, chồng tôi lại là con trưởng. Anh ấy chỉ có ba người em trai. Giày của đàn ông thì không quá cầu kỳ, vì thế tôi có thể may chúng nhanh chóng. Gánh nặng của Mỹ Nguyệt lớn hơn. Gia đình mới của cô chỉ có một người con trai, ngoài ra là bố mẹ chồng, năm chị em gái, chú thím và ba đứa con của họ). Bọn con gái chúng tôi cũng phải may mười sáu đôi giày cho mình, bốn đôi dành cho bốn mùa. So với những thứ khác thì đây là những thứ mà chúng tôi phải chăm chút tới từng đường kim mũi chỉ, nhưng chúng tôi vẫn cảm thấy sung sướng với kiến thức đó, vì chúng tôi có thể dành hết tâm sức cho từng đôi. Việc khâu giày cho phép thể hiện kỹ năng cũng như thẩm mỹ của chúng tôi, nhưng nó cũng gửi đi một thông điệp vui vẻ và lạc quan. Theo thổ âm xứ tôi, từ hài (giày) phát âm giống với từ nhi (con). Cũng giống với việc may chăn, người ta quan niệm rằng càng khâu được nhiều giày thì càng sinh được nhiều con. Sự khác biệt chỉ là việc khâu giày đòi hỏi phải cầu kỳ tỉ mỉ, còn may chăn thì lại là công việc nặng nhọc. Vì ba đứa chúng tôi làm việc cạnh nhau, nên chúng tôi thi với nhau theo một cách thân thiện nhất xem ai tạo ra được những kiểu mẫu đẹp nhất cho lớp ngoài của mỗi đôi giày, đồng thời phải làm được lớp lót bên trong chắc chắn và nâng đỡ đôi chân tốt nhất.
Gia đình tương lai của chúng tôi đã gửi cho chúng tôi cỡ chân của những người bên nhà họ. Chúng tôi chưa gặp chồng mình nên không biết họ có cao lớn hay rỗ mặt không, nhưng chúng tôi biết cỡ chân của họ. Chúng tôi là những cô gái trẻ - lãng mạn như bất cứ người con nào ở độ tuổi ấy - và chúng tôi tưởng tượng ra tất cả mọi điều về chồng mình từ những cỡ chân đó. Một số điểm hóa ra lại đúng. Nhưng hầu hết là không.
Chúng tôi dùng những cỡ chân đó để cắt những mảnh vải bông, rồi dán ba lớp vải vào cùng với nhau. Chúng tôi làm vài bộ như vậy và đặt chúng lên bệ cửa sổ để phơi khô. Suốt hội Nghênh Phong, chúng khô rất nhanh. Khi đã khô hết, chúng tôi chụm ba chiếc vào với nhau, và khâu thành một cái đế giày dày dặn và chắc chắn. Hầu hết mọi người đều lặp lại những mẫu đơn giản trông giống như những hạt thóc, nhưng chúng tôi muốn gây ấn tượng với gia đình mới của mình, vì thế chúng tôi thêu nhiều kiểu khác hẳn: hình cánh bướm trải rộng ra cho đôi giày của chồng tôi, hình hoa cúc rực rỡ cho mẹ chồng, hình con dế trên cành cho bố chồng. Thêu thùa cầu kỳ như vậy trong khi đó chỉ là những chiếc đế giày, nhưng chúng tôi lại xem đó là lời nhắn nhủ với những người chúng tôi hy vọng sẽ được họ thương yêu khi chúng tôi về làm dâu.
Như tôi đã kể, năm đó trời nóng như thiêu như đốt suốt hội Nghênh Phong. Ở căn buồng trên gác chúng tôi nóng vã mồ hôi. Dưới nhà cũng chỉ mát mẻ hơn chút xíu. Chúng tôi uống trà, hy vọng nó sẽ giúp làm cơ thể dễ chịu hơn, nhưng thậm chí ngay cả khi chỉ mặc những chiếc áo ngoài và quần dài mùa hè mỏng nhẹ nhất chúng tôi vẫn thấy nóng ngột ngạt. Vì thế, chúng tôi thường nói chuyện về những ngày mát mẻ khi còn thơ bé. Tôi nói về chuyện mình đã nhúng chân xuống dòng sông ra sao. Mỹ Nguyệt nhớ lại mình đã chạy băng qua cánh đồng vào độ cuối thu khi không khí khô và lạnh lướt trên má cô. Tuyết Hoa từng đi lên mạn phía Bắc với bố cô và nếm trải gió lạnh buốt thổi từ Mông Cổ sang. Tất cả những thứ đó cũng không làm dịu bớt được cảm giác nồng nực của chúng tôi. Chúng còn khiến chúng tôi thấy bứt rứt nữa kia.
Bố và chú cảm thấy tội nghiệp cho bọn tôi. Họ hiểu về sự khắc nghiệt của thời tiết hơn chúng tôi nhiều. Hàng ngày họ phải làm việc dưới cái nắng như thiêu như đốt. Nhưng chúng tôi nghèo. Chúng tôi không có được khoảng sân nhỏ trong nhà để đi dạo mát, hay một mảnh đất nơi chúng tôi được những người khiêng kiệu đưa đến ngồi dưới những bóng cây mát mẻ, hay bất kỳ nơi nào chúng tôi không còn bị săm soi bởi những người xa lạ. Thay vào đó, bố lấy mấy mảnh vải của mẹ, và cùng với chú giăng thành một cái lán cho chúng tôi ở mạn phía Bắc ngôi nhà. Sau đó, họ trải một vài chiếc chăn bông mùa đông lên mặt đất để chúng tôi có được chỗ ngồi êm ái.
“Đàn ông ở ngoài đồng suốt ngày,” bố nói. “Họ không nhìn thấy bọn con đâu. Trong khi chờ cho đến lúc thời tiết thay đổi, các con có thể làm việc ở đây. Đừng nói với mẹ các con về việc này.”
Mỹ Nguyệt đã quen đi đến nhà các chị em kết nghĩa trong những buổi thêu thùa hay đại loại như thế, nhưng tôi chưa hề ra loanh quanh Phủ Vĩ như vậy từ tuổi thơ sữa. Chắc chắn là tôi đã bước ra khỏi ngưỡng cửa để leo lên kiệu của bà Vương và đi hái rau trong vườn nhà. Nhưng ngoại trừ những việc đó