
thoắt lạnh thoắt nóng, khiến mọi người khó mà thích ứng được, đặc biệt là về đêm, chỉ có thể để ở mỗi phòng một bếp là sưởi ấm.
Tôi sợ than không đủ, đến quá nửa đêm bèn tỉnh dậy để gắp thêm than.
Bên cạnh chính là phòng của giáo sư Điền Duy Niên, nửa đêm, tôi nghe thấy trong phòng ông có tiến cào tường, vội vàng chạy sang xem ông có chuyện gì. Gõ cửa hồi lâu cũng không thấy có phản ứng, tôi vội gọi trưởng đoàn cùng phá cửa.
Chúng tôi mất rất nhiều thời gian và công sức mới phá được cửa bước vào, nhìn thấy giáo sư Điền đã nằm bò dưới đất.
“Lão Điền bị bệnh tim”. Trưởng đoàn lập tức phản ứng.
Tôi vội vàng tìm thuốc trợ tim trên người giáo sư Điền nhưng không thấy, tôi cuống quá, mở va li hàng lý của ông. Ở dưới đáy va li có mấy lọ nhỏ, tôi lấy ra một hộp đưa cho trưởng đoàn, trưởng đoàn lập tức cho giáo sư Điền uống.
Tay tôi rút ra khỏi tầng dưới đáy va li, không may kéo theo một thứ gì đó, là một bức ảnh đen trắng cỡ 3×4. Ánh sáng trong phòng quá tối, tôi tiến lại gần bếp lò, nhờ vào ánh lửa, ngắm nhìn thật kỹ, bất giác ngẩn người.
Khuôn mặt trẻ trung trong tấm ảnh, trải qua bao tháng năm, giờ đã trở nên mơ hồ, nhưng thần thái và nét mặt không bao giờ thay đổi.
Giáo sư Điền uống thuốc xong, từ từ tỉnh lại, nhìn tôi và trưởng đoàn, nói vẻ hài hước, “Lại dạo qua Quỷ môn quan một vòng rồi”.
“Nếu không có Tiểu Điền, Lão Điền anh đây đã mất mạng rồi”. Trưởng đoàn chỉ vào tôi nói.
Tôi ngẩn người, tấm ảnh trong tay bị rơi vào lò than mà cũng không hay biết. Ánh lửa xanh lướt qua trước mắt, định lấy tấm ảnh đó lại, thì đã không còn kịp nữa rồi.
Trưởng đoàn quạt quạt nhẹ luồng khói ở trong lò, “Đã đốt cháy thứ gì vậy?”
Tôi kinh ngạc nhận ra, vừa rồi mình đã vô tình đốt cháy không chỉ một tấm ảnh, mà còn đốt cháy cả ký ức của một con người.
Sắc mặt giáo sư Điền lại trở nên trắng bệch, nhìn tôi, miễn cưỡng mỉm cười, “Không sao, đốt rồi thì thôi”.
5. Bầu trời đầy sao ở Lan Châu
Trưởng đoàn về đi ngủ, còn tôi thì không tài nào chợp mắt được, đã sang phòng giáo sư Điền ở bên cạnh nhìn mấy lần. Ông nói với tôi, “Con à, chúng ta cùng nói chuyện nhé”.
Tôi ngoan ngoãn ngồi xuống cạnh ông, cúi đầu nói: “Cháu đã từng nghi ngờ… nhưng giờ thì cuối cùng cũng có thể khẳng định rồi”.
“Con không có gì muốn hỏi ta sao?”
“Nếu như muốn nói, thì bác sẽ tự nói thôi”. Tôi không hề sốt sắng để biết được đáp án.
“Mẹ con là một người phụ nữ rất tốt, chính ta đã có lỗi với bà…” Giọng ông trầm xuống, và thật già nua, trong buổi đêm lạnh lẽo này, càng khiến ta cảm thấy bi thương, “Mẹ con và ta quen nhau qua sự giới thiệu của người khác, cô ấy làm y tá trong bệnh viện, còn ta vừa mới thi đỗ vào đại học, chính là khóa sinh viên đầu tiên sau khi phục hồi quy chế thi đại học, bọn ta có tình cảm với nhau và quyết định kết hôn”.
Vẻ mặt ông dường như trở về thời khắc xa xưa, “Hồi đó, những người học đại học và những người không học đại học có sự khác biệt rất lớn về mặt tư tưởng, có rất nhiều việc ta không thể nào trò chuyện cùng mẹ con được. Mỗi lần ta về nhà, cô ấy đều chỉ biết làm việc nhà, mặc dù thu dọn nhà cửa rất sạch sẽ ngăn nắp, và cô ấy ăn mặc cũng rất gọn gàng hợp mắ, nhưng thường tiết kiệm lời. Ta thấy cô ấy quá trầm mặc, không theo kịp xu thế thời đại. Lúc đó, con gái học trường đại học Kỹ thuật cũng không nhiều, nhưng ở lớp ta có một cô gái, mọi người đều gọ cô là hoa khôi của lớp. Tất cả các nam sinh trong lớp đều rất ân cần quan tâm cô ấy, nhưng cô ấy lại chỉ chú ý tới mỗi mình ta. Có lẽ, đang đúng vào độ tuổi xuân phơi phới, có lẽ cũng là do thói hư vinh, dù sao cũng không biết mình bị thứ gì mê hoặc, dần dần ta đã xa cách với người vợ ở nhà, và bắt đầu qua lại với cô hoa khôi của lớp. Khi ta tốt nghiệp đại học và đang làm việc ở phòng nghiên cứu, mẹ con đã đề nghị chia tay. Thời kỳ đó, việc ly hôn vẫn còn chưa phổ biến, cô ấy không hề oán hận mà đã để cho ta được tự do. Thân xác đã được tự do, nhưng trong lòng luôn cảm thấy trống rỗng, khi quay lại tìm cô ấy, cô ấy nhất định không chịu gặp ta. Về sau, cô ấy đổi chỗ làm, chuyển nhà, từ đó bặt vô âm tín’.
Ông thở dốc một cách khó khăn, rồi lại tiếp tục nói: “Cuối cùng ta không kết hôn cùng cô hoa khôi lớp, mà tổ chức đã giới thiệu cho ta một người, và cũng có một đứa con với nhau…”
Tôi lắng nghe lời ông, không biết trong câu chuyện này có bao nhiêu phần là sáng tác, bao nhiêu phần là sự thực. Dù sao, tôi chưa từng sống trong những năm tháng đó, nên cũng không thể hiểu được quan niệm về tình yêu hôn nhân của thời đại đó.
Câu chuyện đã kể xong, chúng tôi cùng lặng im hồi lâu.
Ông hỏi: “Con à, con có thể tha thứ cho ta không?”
Tôi ngoan cố lắc đầu, “Cháu chưa bao giờ oán hận bác, thì sao có thể nói đến tha thứ được đây?” Mẹ tôi nói, bà không hận người không liên quan gì đến mình, tôi đương nhiên cũng không có lý do gì để hận ông. Mối ân oán của thế hệ trước, hãy để c