
ó rồi. Lòng ta chỉ có một mình nàng thôi, sẽ không có thêm bất cứ người nào khác cả.”
Tôi không nén nổi những giọt nước mắt, giậm chân nói: “Chính những lời của huynh mới khiến muội đau lòng ấy…” Từ phía xa bỗng có mấy tiếng lạch phạch vang lên, thì ra là tiếng vỗ cánh của mấy con quạ đêm về muộn, lúc này vầng trăng đã ngả dần về phía tây rồi.
Thời gian đã chẳng còn được bao nhiêu.
Thật nhẹ nhàng và chậm rãi, tôi đẩy tay y ra, rơm rớm nước mắt nói: “Huynh xem kìa, vầng trăng đã ngả về tây, chỉ một canh giờ nữa thôi là trời sẽ sáng.”
Y khẽ lắc đầu, sắc mặt ảm đạm như màn đêm, không còn chút ung dung rạng rỡ của ngày trước nữa. “Ta bỗng có cảm giác mình giống như cô hồn dã quỷ, trời vừa sáng là đại hạn sẽ tới, dù không cam lòng đến mấy cũng phải để cho nàng đi.”
Màn đêm dần dần lùi đi, tôi chỉ còn biết cúi đầu buồn bã. “Đại hạn kỳ thực đã tới rồi. Muội ra ngoài đã rất lâu, nếu còn không quay về, chỉ e Cận Tịch và Hoán Bích sẽ không ứng phó nổi.” Tôi từ từ rút tay ra khỏi lòng bàn tay y, dường như đã phải dùng hết sức lực toàn thân. “Cùng ngồi với nhau, ngắm mây trên trời, nhẹ nhàng trò chuyện, hoặc chỉ lặng im, hưởng thụ sự bình yên trong những phút giây ngắn ngủi.” Tôi buồn bã nói: “Thanh, ước mơ ấy thật đơn giản biết bao, nhưng giờ đây nó đã trở nên xa xăm quá mức rồi.”
Thời gian lẳng lặng trôi qua, để lại trong tâm khảm mỗi người những ký ức khó có thể xóa nhòa, nhưng khi gặp lại, tôi và y sẽ phải trở về thân phận thuở xưa, cắt đứt hết những sợi tơ tình da diết.
Giữa màn đêm, những bông hoa vẫn chưa ngớt buông rơi, tựa một bầy chim gãy cánh, hoàn toàn mất đi sự tự do và linh động lúc bay lượn giữa bầu trời, chỉ còn lưu lại một mảng thê lương, nhấn chìm mọi niềm hy vọng.
Giữa đêm khuya, trong phòng chỉ thắp một ngọn đèn leo lắt, Cận Tịch khoác thêm áo ngồi lặng im trên ghế, Hoán Bích ngủ gật kề bên, có điều đã lập tức bị tiếng bước chân của tôi làm giật mình thức dậy. Nhìn thấy tôi quay về, muội ấy bất giác cả kinh, nhưng rất nhanh sau đó đã bình tĩnh trở lại. “Tiểu thư muộn thế này mới quay về, nô tỳ còn tưởng…”
Tôi hờ hững nói: “Tưởng rằng ta sẽ không về nữa sao?”
Cận Tịch rót cho tôi một chén trà, ôn tồn nói: “Nô tỳ biết nương nương nhất định sẽ về mà.”
Trên mái tóc nàng ta vẫn còn dính nước sương chưa khô, tôi để ý một chút, thấy nơi mũi giày của nàng ta cũng đã bị nước sương làm cho ướt đẫm, bèn hỏi: “Vừa ra ngoài sao?”
Cận Tịch khẽ nở nụ cười. “Nô tỳ biết nương nương nhất định sẽ về, do đó mới thay nương nương tới một nơi.” Thấy tôi thoáng lộ vẻ khó hiểu, nàng ta bèn chỉ tay về hướng hậu sơn.
Tôi lập tức hiểu ra. “Vương gia quay về là việc mừng, đúng là nên báo cho Thái phi biết.” Hơi dừng một chút, tôi lại tiếp: “Thái phi là người thông minh, tất nhiên biết sự thực về đứa bé này không thể nói cho y biết, bằng không sẽ xảy ra một phen phong ba rất lớn.”
Cận Tịch chậm rãi nói: “Nương nương đoán đúng rồi, Thái phi cũng nghĩ như vậy, bởi nói cho Vương gia biết việc này chỉ là hại Vương gia thôi.”
Ta đưa tay vuốt ve khuôn mặt đầy vẻ mỏi mệt của Hoán Bích, dịu giọng nói: “Muội yên tâm, Vương gia sẽ không thương tâm quá lâu đâu. Mau ngủ đi.” Hoán Bích khẽ gật đầu, nhưng vẻ âu lo và sợ hãi trên mặt vẫn không sao tan đi được.
Tôi chẳng thấy buồn ngủ chút nào, liền lấy cây trâm bạc đang cài trên búi tóc xuống, khẽ khều vào bấc lửa cho nó sáng hơn một chút, như thể làm vậy sẽ có thể soi rọi trái tim của tôi. “Cận Tịch.” Tôi khẽ nói: “Hồi nhỏ, cha thường khen ta thông minh, làm việc gì cũng dễ hơn người khác. Nhưng dù ta thông minh đến mấy thì cũng chẳng thể hiểu thấu được một chữ tình. Cận Tịch, nếu có thể, ta thực sư mong mình cả đời này chẳng biết ái tình là gì, cả đời chỉ là một nữ tử tầm thường phàm tục, có lẽ như thế sẽ vui vẻ, dễ chịu hơn một chút.”
Cận Tịch giúp tôi cởi áo choàng, giũ đi những hạt sương bên trên, lại khoác cho tôi một chiếc áo mới sạch sẽ, động tác rất dịu dàng và nhanh nhẹn. Ánh trăng chiếu xuống mái tóc dài tha thướt của tôi, làm phản chiếu những tia sáng lấp lánh như ánh lệ.
“Những nữ tử dịu dàng thường mang số mệnh của kẻ mày râu cứng cỏi, dù thông minh tuyệt đỉnh cũng khó thắng nổi một chữ tình. Là thân con gái, ai mà có thể nhìn thấu được chữ tình, cho dù là…” Nàng ta khẽ thở dài một tiếng. “Sự khác biệt chẳng qua là ở chỗ đã tuyệt vọng hay chưa tuyệt vọng mà thôi.”
Tôi yếu ớt tựa người vào cửa sổ. “Trước đây ta xem vở kịch Mẫu Đơn đình, thấy Đỗ Lệ Nương vì Liễu Nhược Mai mà chết rồi sống lại, cứ ngỡ rằng tình có thể gặp thần giết thần, gặp Phật giết Phật. Bây giờ mới hiểu, kịch dù sao cũng chỉ là kịch mà thôi.”
“Do đó trước đây nô tỳ mới nói lửa cháy ngang mày, nhìn ngay trước mắt. Nhưng bây giờ tình hình đã khác rồi, tất nhiên cần phải nhìn trước ngó sau, tính toán cẩn thận mới được.”
Tôi lặng im, bỗng nhớ lại hồi nhỏ khi xem vở kịch Mẫu Đơn đình từng thấy một câu thế này: “Tình chẳng iết từ đâu mà có, càng lúc càng sâu. Khi sống có thể vì tình mà chết, chết rồi lại có thể vì tình mà sống.” Hồi còn nhỏ tôi luôn có cái nhìn rất rạch ròi về tình cảm, yêu tức