
, nhe hai hàm răng trớn lởm ra. Cô Hợi như đứng tim, hồn vía lạc mất vì kinh hãi. Nhưng, quái lạ! Con chó không cắn. Ánh mắt của nó, cử chỉ của nó, và cái miệng của nó lúc nhe răng, cô Hợi thấy con chó đang cười với mình. Nó mừng rỡ chạy khắp từ phòng này sang phòng khác. Nó giống như vui quá mà bị điên vậy, cứ chồm chồm lên người cô, rồi nhe răng cười.
Người bạn của cô Hợi sợ chết khiếp, tới giữ con chó, đem nó xích lại. Theo như những gì người bạn đó nói. Con chó già đó bình thường rất dữ. Nó đã cắn rất nhiều người rồi, nên mới bị xích lại một chỗ. Bà chủ nhà cũng không hiểu vì sao con chó thấy cô Hợi lại mừng như vậy? Đáng ra nó phải cắn mới phải, vì cô Hợi mới lần đầu tiên đến nhà chơi. Một người hoàn toàn xa lạ với nó, tại sao nó lại mừng?
Hai người bạn ngồi nói chuyện với nhau, mà con chó cứ vùng vằn, muốn bứt xích thoát ra cho bằng được. Bà chủ la mắn, còn đánh đập nó, thế mà nó vẫn không chịu yên. Lúc cô Hợi ra về, nó cứ nhìn theo cô Hợi, nét mặt nó rất tội nghiệp, cô Hợi còn trông thấy một đường lệ chảy bên khóe mắt nó. “Ư…ư…ư…” Con chó rên rĩ trông tội lắm! Cô Hợi đi được một quãng đường xa rồi mà vẫn còn nghe thấy tiếng tru của nó.
Sự việc đó khiến cô Hợi nhiều đêm không ngủ được. Một tháng sau, cô đi coi bói. Và được người thầy bói cho biết. “Con chó mà cô gặp đó, trước đây là người thân của cô. Kiếp này phải đầu thai làm kiếp chó, để trả lại cái nghiệp lúc sinh thời làm “nghề” bắt trộm chó đem bán thịt. Lúc trông thấy cô, người đó đã nhận ra cô nên mới vui mừng.”
Từ chỗ coi bói ra, cô Hợi đi thẳng đến nhà người bạn nơi có con chó kỳ lạ. Cô muốn xin con chó về nhà nuôi. Nhưng, đến nơi thì đã không còn thấy nó đâu nữa. Hỏi ra mới biết. Bà chủ đã đem con chó đi bán cho quán thịt cầy dưới đồi, bà còn giải thích tỉnh bơ về hành động mua bán của mình: “Nó già rồi, đem nó đi hóa kiếp cho nó đỡ khổ.”
Câu chuyện này xảy ra cũngkhá lâu rồi. Hồi đó, tôi là sinh viên năm thứ 3 trường đại học Y*. Ham chơi, đua đòi, sống không có lý tưởng và mục tiêu. Môi trường đại học “vô kỷ luật” lại chắp thêm cho tôi đôi cánh, để tôi thỏa sức mà chơi bời đàn đúm. Việc thi cử của tôi cũng đơn giản lắm! Tôi cứ việc ở nhà, không nhất thiết phải đến giảng đường, vì đến đó cũng chẳng có ít lợi gì. Hình ảnh một giảng viên đứng trên bục giảng mở giáo trình ra đọc, còn sinh viên bên dưới lúi cúi ngồi chép bài đã ăn sâu vào trí óc của tôi. Một nổi ám ảnh không thể rũ bỏ được. Tôi vẫn thường nằm ác mộng thấy những kỳ thi nặng nề, đầy áp lực. Những tưởng vào đại học rồi sẽ thoát khỏi cái nạn “học vẹt”, chạy đua thành tích. Ai ngờ, môi trường đại học cũng “chào khách! Chào khách!” không khác gì một con nhồng mới lột lưỡi tập nói. Có lẽ, đó là một trong những nguyên nhân căn bản khiến tôi chán nản việc học. Tôi cứ chơi cho đã, đến mùa thi lại tìm mấy đứa bạn, hỏi chúng nó xem đề thi đợt này bao gồm những gì. Giáo dục ở trường tôi hay ở chỗ, những câu hỏi có trong đề thi đã có sẵn trong đề cương ôn tập. Giảng viên sẽ cho biết những câu cần học thuộc, sinh viên đánh dấu vào, về “cày” hết những câu đó thế nào cũng trúng bốn năm câu. Hay hơn nữa, ở chỗ: “đi học chuyên cần”. Mấy thầy cô khuyến khích sinh viên đến trường bằng phần thưởng rất thơm. Đi học đều sẽ được điểm qua môn (vào khoảng từ 4 đến 5 điểm),có nghĩa là không cần thiết thi được bao nhiêu điểm, miễn đi học là qua môn. Mấy thầy, mấy cô, làm như sinh viên đại học chúng tôi là những bông hoa bé ngoan vậy.
Chán học thì sẽ làm gì? Tất nhiên là giết thời gian bằng nhiều cách, trong đó, chơi bời là một cách được nhiều người lựa chọn nhất. Tôi cũng không ngoại lệ, thời gian học đại học, tôi thường đến quán cà phê sách ở đường Trạng Trình, ngồi thâu đên suốt sáng với ông chủ quán. Tôi và ông chủ Ngô Nhật Quân thường đánh cờ tướng với nhau, đánh xong thì nấu nướng; gọi là giai đoạn chuẩn bị cho cuộc “ly ve sầu” (cuộc nhậu) mỗi ngày, vào lúc 5 giờ chiều. Chú Quân gọi cho mấy anh em nữa để bắt đầu “nhập tiệc.”
Hôm đó, có lẽ do vui quá mà tôi uống khá nhiều rượu. Uống đến tận 11h 30 tối. Một số người nằm tại chỗ, một số người đã về từ sớm, tôi nghe thấy tiếng một người nôn ọe trong nhà vệ sinh. Cũng đã đến lúc tôi phải về, tôi có thói quen; đi đâu thì đi, nhưng nhất định phải về nhà ngủ, tôi không thể ngủ ở bất cứ chỗ nào khác ngoài căn phòng bừa bộn của mình. Tôi xin phép chú Quân ra về, và hẹn ngày mai sẽ gặp lại chú.
Tôi bước ra khỏi quán, nhìn đồng hồ đeo tay thấy đã 12 giờ kém mười lăm. Ánh đèn vàng võ ôm lấy vô số những hạt mưa bụi. Mặt đường lặng câm, một cơn gió tạt qua mái tóc. Bỗngdưng tôi thấy ớn lạnh.
Nhà tôi cách quán cà phê của chú Quân không xa (ước chừng 1 cây số), tôi không có xe máy nên thường phải cuốc bộ; cả đi và về là 2 cây số, tôixem đó như một bài tập thể dục hữu ích.
Tôi bước đi trên con đường vắng lặng. Không một bóng người qua lại, không tiếng gió, tiếng côn trùng… những ngôn nhà chung quanh đã tắt đèn đi ngủ. Nếu có đi chăng nữa thì là ánh đèn màu đỏ ở những cái am thờ.
Con hẻm bà Chuột mở ra, để đi tắt qua nhà, tôi buộc phải đi qua con đườ