
họcũng không cần thiết phải lo lắng bên ngoài địa ngục có nhà trọ hoặc nhà ở hay không.
Nhưng trong vấn đề này, ý thức về âm phủ mà quanniệm đạo đức bản địa của Trung Quốc ủng hộ lại rất ngoan cường. Cụn TriĐường trong quyển Thuyết vô quỷ từng nói rằng: “Ở Trung Quốc, khi nóiđến “thuyết thần diệt” người ta còn có thể chịu yên, cái quan trọng ởđây là “thuyết vô quỷ”, bởi nó không thuộc về tôn giáo, nhưng vẫn là vấn đề về luân lý, nói “không có quỷ” chính là không công nhận tổ tong linh thiêng, tức là liên quan đến việc bất hiếu.” Câu chữ không nhiều nhưngrất sắc xảo, rất nhiều các bậc đại Nho gặp phải vướng mắc khi phải lựachọn trong mơ hồ về vấn đề thần quỷ, do đó họ đã nhận lấy lưỡi dao đểgiải thoát cho mình. Quan điểm “vô quỷ” là bất hiếu, nói thẳng ra làkhông nhận tổ tông. Tương tự, nhận tổ tông rồi nhưng lại không lo xem tổ tông có chỗ trú ẩn hay không, như vậy chẳng phải bở rơi ông bà, bố mẹ ở nơi hoang vu hay sao? Vì thế, dù là các đệ tử Phật giáo hay các tín đồĐạo giáo có biên soạn ra các loại sách thánh hiền thì người thân củangười đã chết vẫn phải làm lễ siêu độ vong hồn, để tổ tiên sớm được hóakiếp, như mỗi khi Tết đến xuân về, người ta vẫn phải cúng tổ tiên, vẫnphải đi tảo mộ, vẫn phải sửa từ đường, vẫn phải hóa tiền giấy… Xuất phát từ lòng hiếu thảo, họ phải tin rằng người thân của mình đang sống thoải mái dưới âm phủ. Chữ “hiếu” trong Nho giáo Trung Quốc vẫn phát huy được tác dụng chủ đạo trong văn hóa âm phủ. Như vậy, người đời không thểkhông lo cho cuộc sống của những người quá cố dưới âm phủ, và việc trước tiên họ cần làm đó là sắp xếp ổn thỏa việc ăn ở cho người đã khuất.
2
Xét từ góc độ của các hồn ma, chỗ ở của họ dưới âm phủ mới là “thực thể”,nhưng “thực thể” này lại không thể tách rời khỏi cái “hiện tượng giả”của người trần, đó chính là mộ phần, lăng tẩm, hoặc từ đường, miếu thần… Từ đường, miếu thần chỉ phù hợp cho những hồn ma của bậc vương công đại nhân, còn theo “những hiểu biết thế tục”, từ đường, miếu thần là nơicác vong hồn nhận hưởng sự thờ cúng, ăn uống xong, họ còn phải trở vềlăng tẩm nghỉ ngơi. (“Những hiểu biết phi thế tục” về từ đường, thầnmiếu, xin xem phần Phụ ký ở cuối sách này). Nói tóm lại, mỗi hồn ma đềucần có một phần mộ ở dương gian, như vậy mới có thể bảo đảm chỗ ở tươngứng của họ ở dưới âm phủ. Nhưng tất cả mọi việc đều có trường hợp ngoạilệ, những hồn ma lang thang chết không chỗ chôn giống như những kẻ vôgia cư tại chốn dương gian, một ngôi mộ hoang cũng là mong muốn xa xỉcủa họ. Tuy nhiên, dù là cô hồn, hồn ma lang thang cũng đều mong muốn có một chỗ trú thân ổn định, vì thế trường hợp “ngoại lệ” này thực ra vẫnkhông tách rời những phần mộ cho các vong hồn nương tựa.
Chỉ cầnlinh hồn không bị tiêu tan vào hư không thì họ nhất định cần một nơi đểgửi gắm. Quan niệm truyền thống của Trung Quốc cho rằng, linh hồn chếtđi sẽ ám vào hài cốt, nếu hài cốt nằm trong mộ thì vong hồn cũng sẽ nằmtrong mộ. Bởi mộ phần chính là nhà của họ, vong hồn của tổ tiên tuy xacách âm dương với con cháu, nhưng nơi họ ở lại rất gần. Thế là dù nhậnhưởng sự thờ cúng hay phù hộ cho con cháu, tất cả đều rất tiện cho họ.Nếu người chết ở nơi đất khách quê người, vậy cần phải nghĩ cách để đưahài cốt của họ trở về quê hương. Những câu chuyện kể về việc con cháuvượt ngàn dặm xa xôi đi tìm kiếm người thân, hoặc đi tìm hài cốt củangười thân đều được đời đời ca ngợi, đó cũng là việc bắt nguồn từ quanniệm này. Giả như chết ở nơi chiến trường, hơn nữa lại chết ở bên ngoàibiên giới, không những không tìm thấy xác, mà có tìm thấy thì cũng chẳng thể phân biệt được đâu là người nhà, lúc đó chỉ có một cách duy nhất,đó là xây một ngôi mộ giả tại quê nhà, sau đó chiêu hồn về mai táng.Trương Đế thời Đông Hán có bài chiếu văn như sau: “Cha chết phía trước,con chết phía sau. Phụ nữ chân yếu tay mềm đứng nơi pháo đài, đứa bé mồcôi gào thét bên đường. Mẹ già vợ góa, xây mộ hờ thờ, nước mắt tuôn rơi, mong sao vong hồn nơi sa mạc tìm đường trở về, thật đau xót thay!” Cóthể giải thích một chút, “đau xót” ở đây chính là để chiêu những vonghồn đang lang thang “nơi sa mạc” “trở về”. Tóm lại, linh hồn của ngườiđã khuất phải được yên ổn trong mộ. Bởi linh hồn cũng cần có một ngôinhà, chỉ ở đó linh hồn mới được sống một cuộc sống như người thường. Lục Cốc trong Thanh dị lục có viết: “Chỗ đất mai táng gọi là nhà của vonghồn.” Điều này chứng tỏ mộ phần chính là nơi cư trú của các vong hồn.
Những câu chuyện về vong hồn ở mộ được gặp nhiều trong các quyển tiểu thuyếtthời Ngụy Tấn, trong đó tiêu biếu nhất chính là câu chuyện về con gáiNgô Vương tên Tử Ngọc trong Sưu thần ký của Can Bảo. Tử Ngọc và chàngthanh niên Hàn Trọng yêu nhau, tự hẹn ước sẽ thành vợ chồng. Hàn Trọngtheo học Tề Lỗ, trước khi lên đường, bố mẹ chàng mang lễ vật tới nhà Ngô Vương cầu hôn, nhưng bị bên nhà Ngô Vương cự tuyệt. Sau khi biếtchuyện, Tử Ngọc uất ức mà chết, xác nàng được mai táng bên ngoài cổnglàng. Hàn Trọng trở về, biết Tử Ngọc đã chết, chàng vô cùng đau đớn,nước mắt tuôn rời, mang tiền càng tới mộ cúng khấn. Lúc này, vong hồncủa Tử Ngọc “bỗ