
ng nhìn
cậu thiếu niên tuy dáng người cao ráo nhưng thân hình mảnh khảnh ở phía đối
diện.
Hai
người được trao đến tay một tấm thẻ nhỏ, họ đọc tấm thẻ vài giây rồi bắt đầu
trầm tư suy ngẫm. Sau một tuần hương, tiếng trống vang lên. Đôi bên bắt đầu đặt
câu hỏi dồn dập cho đối thủ, có vẻ như Kumalajiba đang chiếm ưu thế. Tuổi trẻ
có lợi thế là phản ứng rất nhanh nhạy. Tốc độ biện luận của cả hai đều khá
nhanh, người này vừa kết thúc một câu, người kia đã trực tiếp trả lời. Khán
thính giả bên dưới tưởng như đang nín thở lắng nghe, chốc chốc lại “ồ” lên hoặc
“à” lên một tiếng, với những trạng thái biểu cảm hết sức phong phú.
Tôi chú
ý đến khu vực quần chúng bởi vì tôi không hiểu một chữ nào. Khi họ bắt đầu luận
chiến tôi đã biết mình không thể hiểu được, vì họ sử dụng tiếng Phạn. Vậy là
tôi chỉ có thể vừa quan sát sắc mặt của đám đông, vừa lục tìm trong trí nhớ
những thông tin lịch sử liên quan đến các kỳ biện kinh.
Biện
kinh đã biến mất hoàn toàn tại các ngôi chùa ở Trung Nguyên, ở Nhật Bản, Hàn
Quốc và khu vực Đông Nam Á thời hiện đại. Phật giáo Ấn Độ vốn đã suy yếu từ
lâu, hiện chỉ có Phật giáo Tây Tạng vẫn bảo lưu và duy trì truyền thống này.
Tôi đã được chứng kiến những buổi biện kinh tại ngôi đền Sera Monastery và đền
Drepung Monastery ở Lahsa. Hoạt động này thường được diễn ra ngoài trời vào
khoảng ba đến bốn giờ chiều. Lạt Ma của các đền chùa khác cũng cử người đến
tham dự, sau khi buổi biện kinh kết thúc, sẽ có người nghi chép lại kết quả
biện luận[7'>.
Khác
với những cuộc thi hùng biện, tranh biện mà chúng ta từng biết, biện kinh là
một hoạt động tập thể. Mỗi buổi biện kinh có thể có đến vài trăm Lạt Ma tham
gia, họ chia thành những nhóm nhỏ từ hai đến bốn người, trong đó, một người sẽ
biện luận chính, những người khác đóng vai trò hỗ trợ. Mỗi khi đưa ra câu hỏi
cho đối phương, người biện kinh sẽ thực hiện những động tác hết sức khoa
trương, như: vỗ tay thật mạnh, sau đó thi triển thế thủ giống hệt Lý Tiểu Long
lúc đấu võ, tay tung vạt áo, lắc tràng hạt, chân giậm mạnh, điệu bộ dữ dằn. Bên
phản biện ngồi xếp bằng trên đất, tay giơ lên phản ứng dữ dội. Toàn bộ khu vực
diễn ra hoạt động biện kinh vang động tiếng vỗ tay, tiếng áo cà sa của Lạt Ma
tung bay loạt soạt và tiếng người huyên náo. Những người ngoại đạo, không hiểu
tiếng Tạng như tôi, chỉ biết quay qua quay lại quan sát biểu cảm của nét mặt và
những động tác tay chân phong phú của những người tham gia biện kinh, thực chất
không hiểu họ nói gì.
Trước
mắt tôi lúc này chỉ có hai người, tuy không hoa chân múa tay, tạo các thế võ,
nhưng biểu cảm trên gương mặt họ vẫn hết sức phong phú. Có thể dễ dàng nhận
thấy, pháp sư trẻ tuổi của chúng ta càng vào cuộc càng say sưa, dáng người rướn
cao, áp đảo đối phương, giọng nói càng ngày càng hào sảng, vang dội. Đối phương
thì trái lại, càng lúc càng mặt ủ mày chau, vẻ hung hăng mất dần, giọng nói
cũng nhỏ dần, sau cùng thì gương mặt biến sắc, thần trí hỗn loạn, mồ hôi đầm
đìa trên trán, ngã bổ nhào về phía trước, quỳ gối xin thua.
Đám
đông hoan hô dậy sóng. Quốc vương và hoàng hậu cũng không nén nổi xúc động, lập
tức đứng lên kính cẩn hành lễ chúc mừng Kumalajiba. Sau một tiếng vỗ tay của
nhà vua, không biết bao nhiêu hòm to hòm nhỏ được khiêng vào, hẳn nhiên đó là
phần thưởng dành cho người chiến thắng. Trời ơi, tôi ngưỡng mộ pháp sư trẻ tuổi
này quá, mới mười ba tuổi mà cậu ta đã đánh bại một vị tiền bối hơn ba mươi
tuổi, không biết sau này trưởng thành hơn cậu ta sẽ còn tài giỏi đến mức nào
nữa?
Sau khi
kết thúc buổi luận chiến, Kumalajiba không tiếp tục giảng kinh, cậu được hộ
tống ra ngoài cung giữa sự vây bọc của đám đông người hâm mộ. Một chú voi lực
lưỡng được trang trí rất bắt mắt và đặt trên lưng một chiếc ghế sang trọng đã
chờ sẵn bên ngoài. Kumalajiba trèo lên lưng voi, quốc vương đi trước dẫn đường,
đoàn người bắt đầu diễu hành. Quốc vương chính thức công bố thắng lợi của đại
sư Kumalajiba cho toàn thể dân chúng trong thành được biết. Hoa tươi từ khắp
mọi nơi được bà con tung lên người pháp sư trẻ, kèm theo những tiếng hoan hô
vang dội, không ngớt. Đoàn diễu hành đi dọc theo các con phố chính, và cả những
ngõ nhỏ suốt một buổi chiều. Ngày hôm đó, Kumalajiba đã được tôn vinh, ca ngợi
hết mức, có lẽ cậu còn được hâm mộ hơn cả các minh tinh màn bạc thế kỷ XXI.
Khuôn mặt an nhiên, trầm lặng thường ngày hôm nay đã sáng lên bởi nụ cười mãn
nguyện nhưng khá dè dặt nơi khóe môi, cho đến tận khi cậu bước chân vào phòng
tôi vào buổi tối.
Chờ cậu
ta yên vị, tôi lập tức đặt câu hỏi:
- Cậu
và người đó đã tranh luận chủ đề gì vậy?
- Có và
không.
Tức là
chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm ư?
- Ông
ta luận về “có” còn cậu luận về “không”?
Cậu ta
gật đầu, tôi lại hỏi tiếp:
- Cậu
đã thắng như thế nào?
- Rất
khó diễn đạt. Tôi không khẳng định là có hay không, mà đặt ra giả thuyết “nếu
như có”. Đã là “nếu như có” thì sẽ không thể là “không” được. Có có không
không, không phải có cũng không phải không.
Tôi
nghe mà ù cả tai, những