
lôi con
dao Thụy Sĩ ra cắt.
Những
việc xử lý tiếp theo không cần tôi phải bận tâm nữa. Mấy tên cướp còn lại khiếp
sợ thứ vũ khí mà tôi cầm trong tay, bây giờ lại thêm một đám người Ba Tư đông
đảo cầm gươm đuổi phía sau, nên bọn chúng đã chạy mất dạng từ lâu. Mấy người Ba
Tư kia kính cẩn hành lễ tạ ơn tôi. Trong số họ có một người biết tiếng Hán và
một người biết tiếng Tochari. Tuy nói năng không lưu loát, nhưng hai ngôn ngữ
bổ sung cho nhau, cộng thêm ngôn ngữ thân thể, chúng tôi cũng có thể hiểu nhau
tám, chín phần. Tôi lôi từ trong ba lô ra tập bản đồ, nhờ họ xác định vị trí.
Tập bản đồ này rất đặc biệt, được phác họa dựa trên tình hình khu vực trước và
sau đời nhà Hán khoảng năm trăm năm. Lật giở đến trang về Tây vực, vì chú thích
bằng tiếng Hán, nên phải mất một lúc lâu họ mới chỉ ra cho tôi vị trí tương đối
nơi chúng tôi đang đứng, có vẻ như gần Luntai (Burgur). Tôi xem xét thật kỹ bản
đồ một lần nữa, thì ra tôi đã rơi xuống ven sa mạc Taklamakan. Ở nơi khô hạn
cực độ như thế này mà vẫn có đồng cỏ rộng lớn, vậy chắc chắn là đồng cỏ và hồ
nước ở Luntai rồi! Đây chính là nơi cư trú của tộc người Rob (La Bố) cổ đại, họ
sinh sống bằng nghề đánh bắt cá trong hồ nước này. Nhưng tôi không thấy quanh
đây có nhà cửa gì cả, có lẽ họ định cư ở phía khác của hồ nước. Nhưng cũng
không thể xác định đám cướp kia có phải người Rob hay không. Luntai cách Khâu
Từ khoảng tám mươi kilômét. Nếu với tốc độ như hiện nay của đoàn lạc đà (bình
quân mỗi ngày đi được hai mươi đến ba mươi kilômét), thì nhiều nhất là bốn ngày
sau tôi có thể đến được Khâu Từ.
Khâu
Từ, mỗi lần nghĩ đến nơi ấy là tim tôi lại đập rất gấp và bóng dáng thanh mảnh,
khổ hạnh ấy lại hiện ra trước mắt. Không biết bây giờ cậu ta bao nhiêu tuổi
rồi. Tôi hỏi mấy người Ba Tư hiện đang là năm nào, họ cung cấp cho tôi một số
thông tin như sau:
1. Ở Trung
Nguyên hiện vẫn là thời nhà Tần của Phù Kiên (nhưng họ không rõ niên hiệu).
2. Vua
Khâu Từ vẫn là Bạch Thuần (họ chỉ biết Bạch Thuần khoảng hơn bốn mươi tuổi).
3. Chỉ
nghe nói Kumarajiva là một vị hòa thượng nổi tiếng (vì người Ba Tư theo tín
ngưỡng Hỏa giáo, vốn là một tôn giáo thờ thần lửa thời xưa, nên mặc dù
Kumarajiva là một cao tăng Phật giáo tiếng tăm vang dội, họ cũng không hay
biết), tuổi tầm hai mươi đến ba mươi tuổi.
4. Họ vừa
đi qua Khâu Từ, bây giờ đang trên đường đến Trường An. Nhưng vì tôi có ơn cứu
mạng với họ, nên họ bằng lòng đưa tôi quay về Khâu Từ rồi mới lên đường đi
tiếp.
Không
phải tôi không muốn đi Trường An, nếu sếp có mặt ở đây, chắc chắn sẽ yêu cầu
tôi phải cùng họ đi Trường An ngay, như thế sẽ được một công đôi việc, tiện thể
khảo sát con đường tơ lụa, con đường huyền thoại từ thời Nam Bắc triều. Nhưng
một giọng nói cứ vang vọng trong tôi, thôi thúc tôi đi đi, đến đó gặp cậu ấy
đi! Sau khi trưởng thành, Kumarajiva sẽ có diện mạo như thế nào nhỉ? Nếu có thể
tận mắt nhìn thấy cậu ấy, những nghiên cứu của tôi sẽ có ý nghĩa hơn rất nhiều.
Vả lại, tôi đã hứa với Pusyseda nhất định sẽ quay lại, tôi phải giữ lời chứ,
đúng không?
Chúng
tôi dự trữ nước và lập tức lên đường, vì lo những tên cướp kia sẽ quay lại. Mấy
tên bị hôn mê, chỉ sau hai mươi tư giờ sẽ hồi phục, rất có thể bọn chúng sẽ tìm
cách trả thù, nghĩ vậy, mọi người đều sợ hãi, ai cũng muốn mau chóng đi khỏi
khu vực ấy càng xa càng tốt. Tôi điều chỉnh lại thời gian trên đồng hồ cho chậm
lại hai giờ, xác lập múi giờ Tân Cương.
Khi
chúng tôi đến được điểm dựng trại thì bầu trời đã lấp lánh ngàn sao. Nơi này là
một thành quách hoang tàn, từ lâu đã không có người ở. Theo phát âm của người
Ba tư thì nó có tên là Tahanqi. Thành quách này có lẽ đã rất nhiều tuổi rồi,
tường thành trải qua nhiều năm tháng không được tu sửa, phần lớn đều đã sập sệ,
dưới ánh trăng vằng vặc, khung cảnh hoang tàn càng làm tăng cảm giác bãi bể
nương dâu. Xung quanh là những thửa ruộng, vậy là chúng tôi đã ra khỏi sa mạc
Taklamakan.
Chúng
tôi dựng trại cạnh tường thành, những người Ba Tư hào phóng dựng riêng một lán
trại cho tôi. Người đàn ông biết tiếng Hán cố diễn đạt cho tôi hiểu rằng nơi
này có liên quan đến triều đại nhà Hán. Nhưng vì tiếng Hán của người đó không
được trôi chảy, phải bổ sung bằng rất nhiều dấu hiệu tay chân, tôi mới hiểu sơ
sơ. Ông ta cho tôi biết, thành trì này do một người Hán xây dựng lên, đó là một
vị dũng tướng, với tài thao lược xuất quỷ nhập thần. Người Hán ư? Dũng tướng ư?
Liệu có
phải là thành Taqian do tướng quân Ban Siêu dựng lên không? Tahanqi và Taqian
có âm đọc rất giống nhau. Có lẽ do người Ba Tư phát âm không chuẩn.
Tim tôi
đập mạnh. Thành Taqian thuộc Khâu Từ, vốn là nơi Ban Siêu đóng quân khi nhậm
chức đô đốc Tây vực, ở thời hiện đại, vị trí chính xác của nơi này vẫn còn là
một bí ẩn.
Nếu nói
như vậy, bí ẩn này, giờ đây đã được giải đáp rồi ư?
Năm 73
sau Công nguyên, Ban Siêu theo đô úy Đậu Cố tấn công giặc Hung Nô phía bắc,
công việc của ông chỉ là văn thư. Ông dẫn theo đoàn sứ giả gồm ba mươi sáu
người đến Shanshan, từ đây cuộc đời chinh chi