
họ đã về cả chỉ còn một mình Thám Xuân ở đó thôi. Giả mẫu cười nói:
- Thế thì thôi vậy. Các cháu không thức quen. Hơn nữa đứa thì ốm, đứa thì yếu, về cả cũng đỡ bận lòng. Chỉ có cháu Thám là đáng thương, vẫn chờ ở đây. Thôi cháu về đi, chúng ta cũng đều về cả.
Giả mẫu đứng dậy uống một ly trà rồi ngồi lên kiệu trúc nhỏ, hai bà già kiệu về. Mọi người đi theo sau.
Bọn đàn bà ở lại thu dọn mâm bát, thấy thiếu một cái ly trà, đi tìm các nơi không thấy, liền hỏi mọi người:
- Có ai đánh vỡ, vất ở đâu, bảo cho tôi biết, đem giả những mảnh để có chứng cớ, nếu không lại bảo là chúng tôi ăn cắp.
Mọi người đều nói:
- Không ai đánh vỡ cả. Có lẽ người hầu các cô đánh vỡ cũng chưa biết chừng? Bà hỏi họ xem.
Người đàn bà nhớ ngay ra, cười nói:
- Phải đấy, tôi nhớ là lúc nãy cô Thúy Lũ cầm, để tôi đi hỏi cô ấy xem.
Bà ta mới đến đường ngách thì gặp Tử Quyên và Thúy Lũ. Thúy Lũ hỏi:
- Cụ đã về chưa? Có biết cô chúng tôi đi đâu không?
- Tôi đến hỏi chị có để cái ly trà ở đâu, chị lại hỏi đến cô của chị.
- Tôi đi pha trà cho cô tôi uống, lúc quay lại chẳng thấy cô tôi đâu.
- Bà Hai vừa nói là họ đi ngủ cả rồi. Chị đi chơi đâu lại không biết à?
Thúy Lũ và Tử Quyên nói:
- Không có lẽ cô tôi lại lẳng lặng đi ngủ ngay, chắc còn chơi đâu đó. Giờ cụ về rồi, có lẽ các cô theo tiễn cũng chưa biết chừng. Chúng ta hãy đi tìm xem, nếu thấy cô tôi thế nào cũng thấy cái chén. Sáng mai bà hãy đi tìm, việc gì mà vội thế.
- Đã biết đích xác rồi thì chẳng cần phải tìm nữa. Ngày mai tôi sẽ sang xin.
Nói xong người ấy bỏ đi về thu dọn đồ đạc. Tử Quyên và Thúy Lũ thì sang bên Giả mẫu.
Đại Ngọc và Tương Vân vẫn chưa đi ngủ. Thấy trong phủ Giả thưởng trăng, người đông như vậy mà Giả mẫu vẫn phàn nàn là ít, lại nghĩ đến chị em Bảo Thoa về nhà, mẹ con anh em sẽ vui vầy thưởng trăng.
Đại Ngọc bất giác ngắm cảnh chạnh buồn, tự mình đứng tựa lan can rơi lệ. Gần đây thấy Tình Văn bệnh nặng, Bảo Ngọc chẳng để ý đến việc gì, vừa rồi Vương phu nhân mấy lần giục, Bảo Ngọc đã đi ngủ, Thám Xuân gần đây bực vì việc nhà, cũng không thiết gì chơi bời, tuy có Ngênh Xuân, Tích Xuân, nhưng không hợp ý cho lắm. Vì thế Đại Ngọc chỉ còn trơ có một mình Tương Vân là thường hay đến an ủi:
- Chị là người hiểu đời, tại sao chị cứ hay chuốc lấy những điều khổ não vào người? Cảnh ngộ của em cũng như chị, nhưng em không có bụng dạ hẹp hòi. Chị hay ốm luôn sao không biết giữ gìn thân thể. Đáng giận thay chị em cô Bảo hàng ngày chầm bập thân thiết, đã bảo là tiết Trung thu năm nay thế nào cũng phải họp nhau lại thưởng trăng, mở thi xã, nối vần làm thợ Thế mà cô ta bỏ rơi chúng ta, thưởng trăng một mình, thi xã không mở, thơ cũng chẳng làm, tha hồ cho cha con, chú cháu thỏa thích tung hoành. Chị cũng biết đấy, vua Tống Thái Tổ nói rất hay: "Nhẽ nào lại để người khác ngủ say bên cạnh giường nằm của mình". Bọn họ không đến, hai chúng ta cứ làm thơ nối vần với nhau, để sau này cho họ xấu hổ một bữa!
Đại Ngọc không nỡ phụ lòng hào hứng của Tương Vân, liền cười nói:
- Cô xem họ làm ồn ào như thế, còn có thi hứng gì nữa!
- Thưởng trăng ở trên núi tuy thích thật, nhưng không bằng thưởng trăng ở gần nước. Chị nên biết trăng dưới sườn núi này đều là ao cả. Trong khe núi có một ngôi nhà gần nước gọi là Ao Tinh quán 1. Thế mới biết khi trước mở cái vườn này có nhiều ý nghĩa. Nơi cao nhất trên núi gọi là Đột Bích, chỗ thấp gần nước gọi là Ao Tinh. Hai chữ "đột" "ao" (lồi lõm) người ta dùng rất ít, bây giờ đặt tên cho ngôi nhà, thực là mới lạ, không chịu rập theo lối cũ. Trong hai chỗ này, trên dưới, sáng tối, cao thấp, non nước, cốt đặt ra để làm chỗ thưởng trăng. Ai thích núi cao trăng nhỏ thì đến chỗ này, ai thích trăng sáng nước trong thì đến chỗ kia. Người ta thường đọc hai chữ này là "oa" "cũng" (cao trũng), kể cũng hơi tục, nên ít dùng. Chỉ có Lục Phóng Ông là dùng chữ "ao" thôi. Tức là câu "Cổ nghiễn vi ao tụ mặc đa". 2 Thế mà có người chê ông ta là tục, có đáng buồn cười không?
Đại Ngọc nói:
- Chẳng cứ một mình Lục Phóng Ông, người xưa dùng chữ ấy rất nhiều. Như bài "Phú thanh đài" của Giang Yêm; "Kinh thần dị" của Đông Phương Sóc 3 cho đến bài "họa ký" nói về việc ông Trương Tăng Do 4 vẽ chùa Nhất Thặng không kể xiết được. Người đời không biết, nhận lầm là dùng chữ tục đấy thôi. Tôi nói thực với cô: hai chữ này là tôi đặt ra đấy. Năm nọ thử tài Bảo Ngọc, bắt anh ấy phải nghĩ mấy chỗ: có chỗ nghĩ ra, có chỗ phải bỏ, có chỗ chưa nghĩ được. Sau này chỗ nào chưa có tên, chúng tôi đều nghĩ và ghi rõ xuất xứ, đưa cho chị Cả xem. Chị Cả bảo đưa cho cậu tôi. Cậu tôi xem xong rất mừng nói: "Biết thế này bảo chị em chúng nó nghĩ cho cả, chẳng thú hay sao?" Những chữ tôi nghĩ đều lấy cả, không bỏ một chữ nào. Bây giờ chúng ta đến Ao Tinh quán đi.
Hai người cùng xuống dốc núi, đi quanh một vòng thì đến nơi. Trên bờ ao có một hàng rào trúc liền nhau thông ra con đường đi sang Ngẫu Hương tạ, ở đó nhà cửa có ít, vừa thấp vừa hẹp, chỉ có hai bà già canh đêm. Biết mọi người đương thưởng trăng ở Đột Bích, không can gì đến họ, nên họ đưa bánh trái và rượu thưởng ra uống sa