
, cần tình cảm;
người đánh đàn, cần kiên nhẫn!
Đàn có vui, buồn, bi,
thương, thể hiện tình cảm của người chơi, đàn có thể làm loạn tâm tư con người,
nếu vì danh lợi à đàn, sẽ bị coi thường. Đánh đàn có thể có vô số loại lý do,
nhưng để “phân chia cao thấp với người” mãi mãi sẽ không trở thành lý do đánh
đàn của Tần Mạt.
Không có tri âm, bảy dây
không vang, Bá Nha có thể làm đứt dây đàn(*), Tần Mạt cũng cùng lắm là không chạm vào
thôi.
Thần sắc của ông lão hiện
vẻ thất vọng, ông luôn theo đuổi truyền thống văn hóa cổ xưa, đáy lòng hi vọng
lớp trẻ có thể học thêm chút thành quả của tổ tiên, mà không phải cả ngày trông
chờ vào ngoại quốc, miệng đầy “thượng đế, Hallelujah[18'>”. Dùng cách nói của ông mà nói chính là:
“Ngay cả đạo của tổ tông còn không nhớ được, còn hoan nghênh tôn giáo phương
Tây lừa gạt vơ vét kia, đầu có phải bị dán keo rồi không?”
Nhưng theo lời nói lúc
trước của Tần Mạt, có vẻ nàng và nhiều thanh niên hiện đại có điểm khác biệt,
cằm ông lão hếch lên từ cái cổ ngắn, tay vung lên, thở mạnh nói: “Tiểu
Thành, Long Tĩnh, dâng trà.” Nhìn tư thế kia, gọi người khác dâng trà, như là đại tướng quân ra lệnh.
Người đàn ông trung niên
sau quẩy hiển nhiên là đã quen tư thế này của ông, nghe vậy vội cung kính đáp,
sau đó lấy một bộ ấm chén từ dưới quầy lên, đặt vào khay, đi đến cái bàn nhỏ
kia.
Ông già ra hiệu cho Tần Mạtảo nàng đi theo, sau đó cũng đi nhanh đến chỗ bàn
nhỏ. Trong quán trà có mấy người khách quen ông liền chào hỏi: “Triệu lão, ngài
hôm nay lại dẫn theo một bộ mặt lạ hoắc vào hả.”
Một ông cụ mập đặt quân
cờ xuống ngẩng đầu nói: “Ồ, lão Triệu Chu, hôm nay ông lại gọi Long Tĩnh ra bắt
người khác uống cùng à?”
“Cô nhóc này rất được.”
Triệu Chu trước là vui cười hớn hở, sau nghiêm mặt lại nói: “Lão mập, chơi cờ
không được nói, ông lại muốn phá quy tắc này à?”
Ông mập vội vàng bĩu môi
một cái, lại bày ra bộ dạng như đang suy tư, hạ nước cờ xuống.
Mọi nơi nhất thời phát ra
tiếng cười, người trong quán trà này tuy không nhiều, nhưng lại có một không
khí tao nhã mà ấm cúng.
Tần Mạt ngồi đối diện
Triệu Chu, ông già thoải mái hào phóng nói: “Cô bé, ông già này tên gọi Triệu
Chu, cháu tên là gì?”
“Cháu là Tần Mạt.” Tần
Mạt khẽ mỉm cười, tư thái thanh thản tao nhã, “Tần trong Tần Hán, Mạt trong sẵn
sàng ra trận.”
Lúc này người đàn ông
trung niên bị gọi là Tiểu Thành kia lấy một chiếc bếp than hồng khéo léo đặt
lên bàn vuông nhỏ. Hắn cho than vào, từ bình gốm đổ nước suối ra, dùng lửa đun
nước.Triệu Chu hưng phấn hỏi: “Sẵn sàng ra trận như thế nào?”
“Trịnh Mục Công làm tướng[19'>,
thì bị ép vào tư thế sẵn sàng ra trận rồi.” Tần Mạt phảng phất trở lại cuộc
khẩu chiến về nho gia thời trước, “Sống gian nan khổ cực, chết trong yên vui,
sẵn sàng ra trận, thời khắc chuẩn bị ứng phó với nguy cơ, đón nhận chiến đấu.”
“Chiến đấu?” Triệu Chu
cười to, “Giờ không phải thời chiến, cháu chiến đấu cái gì?”
Tần Mạt mỉm cười, chỉ
duỗi một ngón trỏ ra, chỉ lên trên trời.
Phật tổ nhặt hoa, Niêm
Hoa vi tiếu (**).
Tần Mạt hôm nay chỉ thẳng lên trời, tuy không nói gì, lại tương đương như nói
với Triệu Chu, nàng chiến đấu với vận mệnh số trời!
Hai mắt Triệu Chu hơi
nheo lại, phảng phất như ánh sắc bén của chim ưng chợt lóe lên. Giờ khắc này,
ông không còn là lão già hòa nhã dễ gần nữa, ngược lại giống như mãnh tướng
bách chiến bách thắng nơi sa trường. Khí thế bức người, đủ để khiến ý chí không
kiên định tan chảy.
Tiểu Thành đang đun nước
tay run run, kinh ngạc ngẩng đầu, nhìn sang Triệu Chu, lại nhìn sang Tần Mạt.
Vẻ mặt Tần Mạt ung dung,
thế ngồi thanh thản, không hề cử động
“Đứa trẻ giỏi!” Triệu Chu
vừa cười, vừa vung tay lên, “Tiểu Thành, cậu xuống đi, hôm nay tôi muốn tự pha
trà đãi cô bạn nhỏ.”
Triệu Thành Bích ngẩn
người, muốn nói lại thôi. Nhưng Triệu Chu có ảnh hưởng lớn, Triệu Thành Bích
chỉ là bậc con cháu, rốt cục vẫn cung kính lui xuống. Sau một lát, hắn lại bưng
một bồn sứ men xanh lên, trong chậu đựng nước trắng, đây là để Triệu Chu rửa tay.
Triệu Chu tự pha trà, đây
không phải chỉ là tao nhã thưởng vị trà, càng muốn thể hiện lễ nghi trà đạo
thanh cao của ông. Chuyện này đối với Tần Mạt mà nói, không thể nghi ngờ gì
nữa, chính là vô cùng kính trọng.
Bản thân Tần Mạt cũng là
cao thủ trà đạo, tham gia vào nhóm văn nhân nhã sĩ Đại Tống, khi đó vẫn lưu lại
dư vị của phong tục thời xưa, về sau mới hình thành trà đạo. Triệu Chu pha trà
lại có điểm khác biệt, ông bỏ qua một số lễ nghi rườm rà, vì nước đang nấu, ông
chỉ lấy nước, làm sạch, xối chén[20'>.
Cầm lấy ấm trà nước đã
sôi, bàn tay của Triệu Chu thô to, đầy vết chai, chẳng hề thích hợp với trà
đạo. Nhưng động tác của ông lại mạnh mẽ đầy hứng thú, lúc chuyển giống như Thái
Cực quyền, tiếng nước chảy vang lên, nhịp điệu như khúc quân hành, khí phách
lạnh thấu xương.
Hương Trà Long Tĩnh tinh
tế mà tao nhã, mùi thơm thanh cao kéo dài, như hương như hoa, như giai nhân mỹ
vị. Trong chén tử sa[21'> có để một ít trà, xếp thành hình, sinh động không nói
nên lời.
Hương trà bốn phí