
g dao lần
thứ nhất, rất dễ dàng. Em lại mím môi lao qua lần thứ hai. Đến lần thứ ba, thì
một tiếng thét kinh hoàng của những người xem nổi lên chung quanh tai tôi. Em
bé đã ngã bổ xuống bàn chân phải mắc vào một mũi dao. Người xem chạy ùa vào. Ông
Khách già ôm ngang lưng con gỡ chiếc hài đen ra khỏi mũi dao. Một dòng máu đỏ
từ trong vết thương bàn chân em bé tuôn ra như suối.
- Không hề gì mà! Dán một lá thuốc cao, khỏi
ngay thôi? - ông Khách vừa nói vừa rắc một ít thuốc cầm máu màu đen để hàn
miệng vết thương, và trao đứa con gái cho một bà xẩm vác đưa xuống chiếc thuyền
đậu trong một con kênh gần đấy.
Bọn trẻ nhỏ ùn ùn chen lấn chạy theo coi. Mặc
dầu đám hát vẫn tiếp tục biểu diễn, nhưng tôi không còn lòng đã nào xem nữa.
Tôi cũng chạy theo đám trẻ, lần xuống mé sông đứng ngó vào thuyền.
Em bé ngồi tựa lưng vào mui, đôi mắt to đen
láy nhìn xuống vết thương trên mu bàn chân đã được bó một lá thuốc cao. Không
thấy máu chảy nữa. Nhưng bàn chân cứ run run, lâu lâu lại giật một cái, khiến
em nhắm mắt lại. Bà xẩm cầm ngọn đèn soi vào chân con, tròng mắt đỏ hoe.
- Con có đau lắm không, con?
Em bé nhắm nghiền mắt, hai tay bóp chặt trên
ống chân, lắc lắc đầu. Một giọt nước mắt người mẹ rơi xuống bàn chân nhỏ của
đứa con đau. Em bé mở choàng mắt ra, hốt hoảng nhìn mẹ, như vừa bị một giọt
nước sôi rơi trúng vào chân.
- Ơ không có làm sao đâu, má à? Buốt buốt một
tí thôi!
Vừa nói, cô bé vừa quờ tay ôm ngang lưng mẹ
và cố nhoẻn cười cho mẹ yên lòng. Nhưng sau đó một chốc, em lại nhắm mắt lại.
Mấy giọt mồ hôi rịn rịn ra trên vầng trán nhỏ. Tôi biết chắc chắn rằng em bé
đau lắm. Tôi không dám đứng nhìn nữa, bèn trở lên chợ.
Bấy giờ đám hát cũng vừa tan. Tôi sực nhớ ra
là mình đã di lâu quá. Tôi liền chạy vào quán cà-phê. Không thấy anh học sinh
côle dâu. Tôi nhằm hướng đầu ngọn cây bàng khô, chạy một mạch về. Đoàn thuyền
vận tải quân lương không còn chiếc nào đậu ở đó nữa. Tôi chạy dọc theo bến chợ
một quãng, hi vọng họ vừa rời di, mình còn có thể đuổi theo kịp.
Trời tối quá. Lửa đèn trên sông dần dần thưa
thớt. Chợ cũng đã tan rồi. Tôi trèo lên một đống gạch, đứng ngóng theo làn nước
lấp loáng ánh sao xuôi xuôi trên dòng kênh không biết chảy về đâu. Một người
đàn bà quảy đôi thùng xuống bến lấy nước, đứng lại nhìn tôi hồi lâu rồi hỏi:
- Có phải mày ở trong
đoàn thuyền vận tải không?
- Dạ phải! - Tôi vội đáp, bụng hơi mừng – Họ
đi dâu rồi dì?
- Trời ơi? Mày đi đâu mà họ tìm mày khắp cả
chợ? Họ đi rồi. Đi từ tám hoánh nào rồi! Nhổ sào từ hồi nước mới ròng. Và người
đàn bà chép miệng: - Chà, chừng như họ được lệnh đi ngay hay sao ấy. Gấp lắm
thì phải!
- Dì có nghe họ nói đi đâu không - tôi hỏi
lại.
- Chuyện quân sự mà, biết sao lọt! Thế mày
cũng không biết à? Họ không nói với mày à?
- Không, dì ạ!
- Mày có ba má, anh em gì trên thuyền không?
- Không. Cháu đi quá giang thôi.
Người đàn bà chành môi ra dài giọng:
- Thảo nào?... Người ta
có việc của người ta chứ. Ai bảo cứ ham chơi, đi những đâu?
Người đàn bà không nói gì nữa, lẳng lặng
xuống sông gánh nước lên chợ. Tự nhiên tôi thấy trong lòng mình rưng muốn
khóc...
Ban ngày tôi thẩn tha đi dọc theo bến, mong
có gặp người nào quen trong đoàn thuyền vận tải quân lương trở lại đây không.
Ban đêm tôi, tôi vào ngủ trong chợ, chui dưới gầm một thớt bán thịt lợn của
người Hoa kiều.
Những người đàn bà trong chợ gọi tôi là thằng
bé tản cư. Nghe đâu hồi tháng trước, chợ này chỉ họp buổi sáng. Hơn tháng nay,
chợ nhóm suốt ngày, có đêm mãi chín mười giờ khuya mới tan. Người tản cư ở các
vùng trên đổ xuống ùn ùn như nước. Mặt nước dòng kênh không mấy lúc ngớt tiếng
khua động mái chèo. Cái chợ con nằm trên ngã ba kênh của xứ làng quê hẻo lánh này
trở nên đông vui nhộn nhịp như một trấn nhỏ. Người từ Sài Gòn chạy xuống tới
đây cũng có. Người vùng Tiền Giang, Hậu Giang cũng có. Nhiều con mụ đàn bà mặc
áo lụa trắng rô-dê (tiếng pháp có nghĩa là thêu), che dù đầm, núng na núng nính
rén bước đi lên chợ, mắt cứ ngó xuống chân dép xăng-đan, sợ bùn đất vấy gấu
quần. Tiền bạc đựng nứt ví, nhưng mua gì cũng chê ỏng chê eo, trả giá rẻ mạt.
Tôi chỉ nghe họ than phiền với nhau rằng: Cánh mình dở quá, không chặn nổi
Tây", rằng "chạy vào đây không có nước đá uống, không có nước ngọt
tắm". Thấy tôi lảng vảng đến gần chỗ thuyền họ, họ nhìn chòng chọc vào
tôi, bộ như muốn ăn thịt: ê đi đi, thằng nhỏ. Mò mẫm toan an cắp hả?" Tôi
ức đến muốn khóc. Có ai quen, gặp tôi bây giờ cũng không nhận ra tôi nữa đâu.
Ngồi bó gối trên cầu nhìn xuống nước, chính tôi cũng khó nhận ra mình trong cái
hình thù quái dị này. Tóc tôi mọc dài gần phủ gáy, hai quầng mắt hõm sâu, cổ
gầy nhom như cổ cò ma. Chiếc áo vét tông bằng ka ki trắng của anh học sinh côle
cho tôi, giờ đây đã biến thành màu cháo lòng, vạt áo phủ xuống tận gối, cứ kêu
loạt xoạt theo mỗi bước đi. Còn chiếc quần đùi bằng vải len của tôi thì bạc
phếch ra, hai ống rách