
chức bám địch theo
từng khu vực. Chúng có khoảng bốn mươi – năm mươi tên, chia thành bốn nhóm nhỏ
trong toàn bộ khu vực, nhiệm vụ của chúng là tất cả đang đào hầm, từng nhóm có
lính cảnh giới phía ngoài chừng vài chục mét. SCH e95 quyết định điều c1 về khu
vực tác chiến (có d phó d1 theo mũi này).
Một
chuyện dở khóc dở cười xảy ra. Sau khi ăn bữa trưa xong, có hai chiến sĩ bỗng
lên cơn sốt. Mặt mày đỏ bừng, người lạnh run như cầy sấy, hai môi đánh lập cập
từng cơn. Đây là chuyện bình thường, nhưng nói thật lúc ấy tôi cũng bối rối
không biết xử lí ra sao, trước giờ đi trong đội hình lớn có quân y sĩ và y tá họ
lo, đâu có ngờ tới cảnh này. Để lại bốn anh chăm sóc, chúng tôi vẫn phải tiếp tục
bám địch. Trước khi đi tôi cho anh em uống thuốc phòng ba (bọc nhựa tám viên
màu nâu của Trung Quốc) và chích cho mỗi người một mũi Quynin Dihidro Sulfate
50 % (theo chỉ dẫn của quân y).
Xế
chiều, lợi dụng trời đổ mưa to, tên lính gác chạy sâu vào trong trú mưa, ta bám
sâu vào khu vực địch. Một nhóm địch đang nổi lửa, nhưng không biết chúng làm
gì, quan sát kĩ không thấy hiện tượng gì khả nghi, ta rút ra ngoài hơn 200 m
nghỉ đêm.
Một
đêm anh em mất ngủ. Căng hai tấm tăng che mưa, móc võng cho hai chiến sĩ bị sốt,
còn hầu hết anh em ngủ ngồi, thay phiên nhau canh giữ bệnh. Ban đêm tình hình
cũng không thuyên giảm, hơi nóng từ trong người tỏa ra, ngồi bên cạnh có thể cảm
nhận được. Anh em vẫn sốt li bì và mê man. Sợ nhất là anh em lên cơn mê sảng,
la lối bị địch phát hiện hoặc rớt xuống võng (lính gọi là giật kinh phong). May
sao gần sáng, có vẻ thuốc đã có tác dụng anh em tỉnh dậy và đòi nước. Lợi dụng
buổi sáng trời nhiều sương mù, tranh thủ đun sôi nước pha sữa. Mỗi người cũng cố
gắng uống được hai ca “loonl trâu.” Mọi việc gần như ổn khi trời sáng hẳn.
Ta
tiếp cận khu vực sớm, không phát hiện tên địch nào trong khu vực, vẫn giữ khoảng
cách 50 – 70 m và quan sát, không vào sâu thêm.
Khoảng
tám giờ, chúng xuất hiện khoảng vài chục tên, vác trên vai cuốc và xẻng, không
thấy chúng mang súng. Cũng có một tên địch mang khẩu AK ra phía ngoài vài chục
mét, leo lên một cành cây bằng lăng ổi ngồi cảnh giới. Chúng tiếp tục đào, từ
dười hố chúng vãi đất lên bờ thấy rõ. Biết được vị trí chúng cảnh giới, ta để lại
năm anh em tiếp tục quan sát, còn lại chuyển qua hướng khác để tiếp cận địch.
Phía
trong Phum cách vị trí chúng đào hầm vài chục mét có một toán địch đang gõ gì
đó nghe leng beng. Lát sau thấy chúng khiêng ra những thùng gỗ, ống đạn DKZ… bỏ
ở phía ngoài.
Buổi
chiều, khoảng ba, bốn giờ chúng mang vác các thùng gỗ ra hố chúng đào và đưa xuống
hố. Nhưng do trời mưa to chúng dùng tấm nilon xanh phủ lại và rút vào trong (hôm
nay thằng lính gác mặt non choẹt, nhỏ con không chạy vào trong cho các bố nó nhờ).
Bước đầu ta phán đoán địch đào hầm để chôn vũ khí và báo cáo về nhà. (Lúc này
C1 cách chúng tôi chừng 5 km, và cả hai lực lượng cùng lấy dòng suối để bắt
liên lạc). Anh em c1 cũng cố gắng tăng tốc hành quân và trinh sát cũng nhanh
chóng đi dọc theo bờ suối để gặp nhau. Khi trời gần tối hai bộ phận mới gặp
nhau, cách vị trí chúng gần 2 km. Không kịp để triển khai lực lượng, đành phải
dừng quân lại nghỉ, riêng bộ phận trinh sát vẫn bám địch không rời vị trí. Thượng
úy Thìn d phó d1 cùng anh em trinh sát 95 men theo bờ suối tiếp cận với khu vực.
Đêm
đó, anh Thìn lên phương án tác chiến căn cứ vào báo cáo của trinh sát. Tờ mờ
sáng bộ phận c1 đã nằm phía sau đội hình trinh sát, chờ phân công vị trí. Để cơ
động nhanh, ta không biên chế hỏa lực mạnh đi cùng. Toàn đội hình có ba khẩu
B41, c1 có bốn khẩu B40 cùng với hai khẩu của trinh sát, hai khẩu RPD và còn lại
là AK. Lực lượng ta khoảng gần một trăm anh em.
Phương án tác chiến như sau:
+ C1 đánh chính diện bao gồm ba mũi (mỗi b là
một mũi). Mỗi mũi có hai trinh sát f dẫn lót đội hình.
+
Bộ phận trinh sát f còn lại (hơn mười người) nhanh chóng vòng phía sau, chốt chặn
đường rút của chúng về phía bên kia biên giới Thái Lan.
Nhận
lệnh xong, anh Giang c phó c1 cùng các anh em trinh sát f rút ra ngoài, vòng
phía sau lưng chúng. Phía sau là một bãi tráng toàn là cỏ tranh và một khu ngập
nước, có một con đường mòn lớn chạy về hướng biên giới cách đó chừng 2 km. Do địa
hình khó bố trí nên anh Giang chỉ bố trí dọc theo con đường (có một quả mìn
Claymore), vì bên kia là bãi tranh, trống trải dễ bị phát hiện.
Anh
em vào vị trí và chờ lệnh nổ súng.
DIỄN BIẾN VÀ KẾT QUẢ TRẬN ĐÁNH.
Dẫn
anh em b1 vòng qua con suối nhỏ và bố trí cách đội hình địch khoảng gần 100 m,
tôi và anh Đỗ Phu (b trưởng b1, lính 1977 quê Duy Nghĩa, Duy Xuyên - Quảng Nam)
bám sát vào sâu hơn 20 m xem tình hình địch (mũi này có CTV c1 Nguyễn Tiến Chăn
quê Lập Thạch, Vĩnh Phú chỉ huy). Quan sát thấy địch ra vào khu vực bình thường,
không có gì nghi là bị lộ, tôi và anh Phu bàn với anh Chăn cho anh em vào sâu
hơn nữa. Men theo các bìa đá và các hỏm suối sâu, anh em b1 tiếp cận địch một cự