
ăm nữa. Nghĩ cũng tiếc đời. Bây giờ mình còn khổ, nhưng ngày mai hẳn sẽ sung sướng hơn. Thằng con ông, từ khi có “khoán mười”, nhận được khoán mấy sào ao thả cá. Hắn tính một năm thu lãi mấy triệu đồng. Lại còn thằng cháu đích tôn cũng ngoài hai mươi, có sức khỏe và chịu lăn lộn với đồng ruộng, thế thì chẳng mấy chốc mà khá lên. Nếu kinh tế mà khá lên, ngoài bảy mươi tuổi như ông, sáng có một bát cháo trứng gà, trưa ăn xôi với thịt thủ, chiều làm một ly rượu để ngủ, thì còn phải mong ước gì nữa. Nghĩ tới ngày mai sung sướng mà ông thấy buồn cho miếng khoai khô nấu lẫn với đậu đang còn nằm ở cổ.
Chán mớ đời. Ông quay ý nghĩ về cái cày hỏng nằm ở ngoài sân. Nếu chẳng may vì nghẹn khoai mà nằm xuống tức thì, thì thật vô lối. Mà thiên hạ người ta lại cười cho, rằng “Dao sắc không gọt được chuôi”. Nhưng mà thôi, hãy cứ đánh một giấc cái đã.
Giấc ngủ của người già vốn không bao giờ sâu, và thường hay mộng mị. Trưa nay, lão Võ Đức Nội cũng mộng mị. Từ cái cày hỏng, đến cái đồng hồ tự nhiên gáy lên rồi hỏng, suy nghĩ của ông kéo về gia phả chín đời nhà ông.
Dưới thời Lê Thánh Tông, giặc giã, lụt lội xảy ra liên miên, nhiều vùng nông thôn đói kém. Vua sắc chiếu cho phép dân đinh tự do tìm chỗ làm ăn. Họ Võ Đức nhà ông, quê tận dưới vùng trũng làng Vũ Đại, được chiếu, đã chia người nhằm hướng rừng phía tây đi lên. Sau mấy ngày dắt díu nhau đi, đoàn người đã đến Ba Bông thì lại chia thành ba đoàn. Đoàn của nhà ông đi theo dòng Vũ Đại, ngược lên. Đi thuyền tiếp bốn ngày nữa, đoàn người gặp một cái chợ bên rìa sông – chợ Găng – thì cắm lều ở lại. Sau một thời gian khai hoang, phát rậm và cày cấy vài vụ, thấy làm ăn được, đoàn người lang thang cầu thực nhà ông quyết định ở hẳn đây. Ông Võ Đức Công – tổ của họ ông – đặt cho xóm mới này cái tên vừa gợi nhớ quê cũ, vừa thể hiện một xóm mới: Đại Vũ. Đại Vũ cũng thuộc làng Vũ Đại.
Ông Võ Đức Công lập nghiệp ở đây một thời gian thì được tin họ Võ Đức ở Vũ Đại bị họ Chí cướp đất. Ông Võ Đức Công đã phải quay lại xóm cũ, tổ chức kiện họ Chí. Vụ kiện kéo dài tới mười năm, họ Võ mới lấy lại được đất. Ghi nhớ công lao của ông Võ Đức Công, ở Vũ Đại hiện vẫn còn đền thờ ghi nhớ công đức của ông. Hiện cả họ Võ Đức ở Vũ Đại và họ Võ Đức ở Đại Vũ vẫn thường kể cho nhau nghe những chuyện này, với một lòng kính trọng và biết ơn sâu sắc. Chuyện này tính tới nay đã được năm trăm năm.
Nếu tính thời gian bằng chiếc đồng hồ “quạ mổ” thì năm trăm năm không biết là bao giờ? Một giờ có sáu mươi phút, không biết là bao nhiêu phút? Một phút có sáu mươi giây, không biết là bao nhiêu giây? Nhưng nếu tính bằng việc thì ông tổ nhà ông đã để lại hai việc: Một là lập xóm mới ở làng Đại Vũ; hai là, lấy lại đất bị nhà họ Chí chiếm.
Ông Võ Đức Công chết đi để lại một người con là Võ Đức Minh. Ông này có sức khỏe hơn người. Chỉ có đôi tay, cái cuốc, cái cày, cái bừa, với một con trâu mộng, trong một thời gian ngắn đã khai hoang được mấy cánh đồng rộng lớn. Gia phả có ghi lại chuyện này: “Ông có rất nhiều ruộng, cho nên lúc nào trong nhà cũng mướn thêm vài chục nhân công làm mới xuể. Bò lúc nào cũng dư vài chục con. Thóc trong nhà lúc nào cũng đầy cót, đầy bồ”. Sau, ông theo nhà Trịnh, phù Lê diệt Mạc. Bao nhiêu của cải của ông đều hiến tất. Đến cuối đời ông lại thành nghèo.
Qua hai đời nữa, họ Võ chẳng có gì đáng nói. Nghĩa là cũng chỉ bám đít trâu kiếm ăn lần hồi. Nghe nói thời nhà Nguyễn, chúng nó đánh thuế nặng lắm, nên nai lưng ra làm, đủ ăn là khá lắm rồi.
Bố ông cũng là người tiếp thu một gia sản nghèo nhất của họ ông từ trước để lại. Rất nhiều lần ông đã nguyền rủa cái họ nhà ông không tìm lối khác mà sống, cứ khư khư ôm mãi cái cày chìa vôi với cái đít con trâu để chịu khổ. Ông đã bỏ làng ra đi. Trước khi đi ông tập trung cày bừa, cuốc xẻng thành một đống, đái lên và ném rơm khô vào đốt. Gian nhà năm gian của ông cũng cháy vào dịp đó với gia phả sáu đời. Xóm Đại Vũ hiện vẫn còn nhắc chuyện này như một chuyện xấu đối với nghề nông. Và như vậy, họ Võ đã phạm vào điều kiêng kị của nhà nông, nên không thể làm ăn khấm khá trên lĩnh vực nông nghiệp được.
May mà có cách mạng. Tổ đổi công, hợp tác xã, rôm chuyện quá. Mới mấy năm có phong trào mà máy cày, máy kéo đã về làng. Đèn nhà ai nhà nấy rạng: chạy đi. Bờ nhỏ, bờ to phá đi để con trâu sắt băng băng đường cày. Gì nhỉ? “Ớ con trâu sắt chị em ơi!” Vui quá! Cứ tưởng đôi mắt người mấy nghìn năm bám vào đít trâu sẽ hết. Bò nuôi chỉ cốt lấy thịt, lấy sữa, làm tái chanh. Cảnh mấy con mẹ đàn bà chuyên “bán mặt cho đất, bán lưng cho trời” cũng sẽ chấm dứt. Có máy cày rồi thì có máy cấy, máy gieo hạt… Nông thôn sắp thành thành thị. Nông dân tất thảy thành công nhân. Ôi chao! Nghĩ mà sướng, mà tràn trề hạnh phúc tương lai. Nhưng rồi hỏng hết cả. Máy cày to, máy cày nhỏ đều lần lượt trở thành sắt vụn. Mấy tay cán bộ dòng họ Chí, phần thì chia nhau, phần thì đánh chén sạch hết. Chẳng biết tại cái gì nhỉ? Tại cán bộ hay tại nhân dân? Đến hợp tác xã bây giờ cũng tan. Người ta bây giờ lại lo lại từ đầu. Cái cày, cái bừa, mảnh ruộng, con trâu chẳng khác gì trước