
hường trong “Bách kỵ lịch”, phần “Tang sát tổn hại pháp”, người con trai chết linh hồn nhập vào con chim đực, được gọi là “hùng sát”, bốn mươi bảy ngày sau bay trở về hồi sát, người congái mới khoảng mười ba, mười bốn tuổi, thư sát, xuất phương Nam đệ tamgia, sát bạch sắc, là nam tử, hoặc hộ Trịnh, Phan, Tôn, Trần, từ ngàyhai mươi đến ngày hai chín sẽ có hai lần trở về tang gia. Mỗi thời tụclệ có thể nhau, nhưng đến những ngày ấy người nhà cần tránh đi nơi khác… Khi nhập niệm, ngay cả những đứa con có cha mẹ chết cũng phải tránh đi, thậm chí phụ nữ cũng không dám đứng lên trên, tất cả đều giao phó cholão gia bộc lo liệu mọi sự.
[13'> Tức là “linh hồn người chết trở về nhập vào loài chim đực”.
[14'> Tức là “linh hồn người chết trở về nhập vào loài chim cái”.
Sau này, tục “tị sát” đã được ghi chép lại trong những cuốn tiểu thuyết, và số lần xuất hiện của nó cũng ngày một nhiều hơn. Đế Phu Thị trongNguyên hóa ký cho rằng “cần phải phòng tránh hung thần, quỷ thần độtnhập vào nhà làm tổn hại đến người và của”, cho nên toàn thể gia đìnhphải dọn đến ở nhờ nhà những người thân quen để ẩn tránh mỗi lần vonghồn người chết hồi quy. Trong Kỷ văn của Ngữu Túc, chữ “煞” (hung thần)được viết thành “杀” (giết, đánh)[15'>, gọi “归剎” (quy sát) là “杀出” (diễnra hành động đánh, giết), cũng là “煞出”, nói: “Trong nhà có người chết,liền mời ngay thầy mo đến cúng “tức ngôn kì sát xuất nhật, tất hữuphương hại, tử gia đa xuất tị chi”[16'>”. Trong Kê thần lục của Từ Huyễnthời Ngũ Đại Nam Đường cũng ghi lại những điều tương tự.
[15'> Trong tiếng Trung
[16'> Đại ý là, trong ngày vong hồn hồi quy tất yếu có hại cho gia chủ, vìthế ngày hôm đó, những người trong gia đình có người chết cần lánh đinơi khác.
Đến thời nhà Tống, vấn đề “tị sát” ở phương Nam trở nên khá phổ biến. Trong Di kiến ất chí của Hồng Mại thời Nam Tống, quyểnmười chín, Hàn thị phóng quỷ có bàn tới vấn đề “tị sát”, hơn nữa còn bắt đầu xuất hiện chuyện “dùng tàn tro làm dấu”, rõ ràng có thể xem đó làmột dấu hiệu can thiệp vào sự tái sinh, chuyển thế đã nói ở trên:
Ở Giang Tô và Chiết Giang có tục tin vào những thầy mo cúng ma gọi quỷ.Tương truyền, người chết hồn lìa khỏi xác, lấy ngày đó để tính ngày vong hồn tìm về quy sát, cách phòng tránh tốt nhất là lúc ấy tránh ra bênngoài, hành động ấy được gọi là “tị phóng”. Nhờ một người con trai khỏemạnh hoặc vị tăng ni rắc tro xuống đất làm dấu, đến khi trời sáng sẽnhìn rõ dấu vết ấy.
Trong Di kiên chi ất, quyển một, Đổng thành nhị lang cũng có đoạn nói:
Đến thời điểm vong linh người chết quy sát trở về, để cất giấu mọi thứ,người nhà thường làm theo tục lệ xưa, lấy cái dần hay cái sàng làm nhỏlớp tro bụi trên bếp, phủ lên trên cái siêu sành, hay nồi đất để kiểmtra xem người chết có hồi quy hay không.
Dấu vết để kiểm tra ởđây là xem vết chân trên lớp tro mà phán đoán người chết có thể đầu thai sang kiếp sau là gì, thấy dấu chân gà nghĩa la đầu thai làm gà, thấydấu chân chó có thể đầu thai thành chó… Họ cho rằng vào một ngày kia,người chết sẽ nhận được thông báo sang thế giới bên kia. Sự quay về “hồi sát” được nói tới ở đây chỉ là một cách để họ từ biệt những người thânyêu của mình còn đang sống trên dương thế. Du Văn Báo là người thật thà, chất phác, có tư chất thông minh, hiểu biết, sống vào thời Nam Tống,ông từng biểu thị sự phản đối kịch liệt đối với những hủ tục “tị sát”trong dân gian. Tại thời điểm đó, nhiều người đã dần dần từ bỏ tục lệ“tị sát”, không theo tăng đạo, không tin âm dương, có thể thấy lệ “tịsát” trong dân gian đã thịnh hành như thế nào.
Thầm Bảng, người triều Minh, trong Uyển thụ tạp ký, quyển mười bảy có nói đến “đóa sát”, một phong tục của người Bắc Kinh:
Những nhà âm dương học thường căn cứ vào năm tháng của người chết để tìm rangày mà hung thần sẽ đến hòng đưa cả gia đình đến nơi khác để ẩn tránh.
Thời nhà Minh có một người Triều Tiên thông hiểu tiếng Hán, là tác giả củacuốn sách Bổ thông sự nổi tiếng, đã ghi lại tục lệ “thiếp ươngbảng”[17'>. Tục lệ này đã có từ trước đó rất lâu, từ thời Lã Tài đã cótục kiêng kỵ “sát phạm sinh nhân”, vốn chính là tục thông cáo ở làngquê. Trong Bổ thông sự có ghi lại một đọan đối thoại rất độc đáo:
“Trước nay người ta vẫn thường dán bản cáo phó trước cửa mỗi khi nhà có tang,anh đã nhìn thấy bao giờ chưa?” “Tôi chưa từng thấy qua. Người ta viếtnhững gì trong bản cáo phó đó?” “Viết là: Ngày Mười hai, Đinh Mão, tháng Hai, Bính Ngọ, năm Nhâm Thìn, người thanh niên sinh năm Bính Thân, quađời ở tuổi ba mươi bảy. Giờ Đinh, ngày Hai mươi tư tiến hành an táng tại cổng thành. Người có chi Tị, Ngọ, Hợi, Mão, kỵ với tuổi người chết”…
[17'> Tức dán cáo phó.
Bản cáo phó, sau này ở một số địa phương còn gọi là “phê thư”, trong đó,ngoài những thứ như ngày sinh tháng đẻ của người chết, cầm tinh củangười thân trong gia đình được viết trên trang cáo phó, còn cần thôngbáo với làng xóm khi nào tiến hành tiểu liệm, khi nào đại liệm, khi nàonghênh thần (thần ở đây chính là để chỉ hung thần), cùng với những điềuxung, kỵ cần tránh… những điều này không chỉ áp dụng trong ngày “tịsát”, mà còn cả tr