
ục nói: "Ây, khôngtới nỗi ngủ lại ở Hoang thôn chứ?"
Đúng rồi, trưởng thôn không phải mời chúng tôi tới nghỉ đêm ở nhà ôngsao? Quả nhiên, tôi nhìn thấy ánh đèn duy nhất còn sáng ở Hoang thôn, đó chắc là nhà của trưởng thôn rồi?
Chúng tôi vội vàng chạy vào Hoang thôn, lần theo ánh đèn trong đêm tốitìm thấy một khoảnh sân. Trưởng thôn quả nhiên đã để hè cửa cho chúngtôi. Sau khi vào sân, chúng tôi gõ cửa ngôi nhà nhỏ, trưởng thôn khoácáo đi ra dẫn chúng tôi vào nhà, ông xếp cho tôi ngủ ở căn phòng tầngmột, vợ trưởng thôn dẫn Xuân Vũ lên căn phòng trên tầng hai.
Trong căn phòng thoang thoảng mùi đất của trưởng thôn, tôi vừa nằmxuống gối là liền ngủ thiếp đi, hình như vẫn còn tiếng sáo đang bay lượn trong mơ màng.
Ngủ ngon, các bạn…
Sáng<
Tôi cứ ngỡ rằng mình sẽ mơ thấy "Hoàn", nhưng tôi lại không mơ thấy cô ta (nó), thậm chí là cả Tiểu Chi mà tôi kỳ vọng cũngkhông xuất hiện.
Đây là đêm đầu tiên trong mấy tháng nay tôi không nằm mơ.
7 giờ sáng, tôi mơ mơ màng màng mở mắt, hình như ngửi thấy một mùi mằn mặn, đây là mùi thường ngửi thấy gần biển.
Lúc này tôi mới ý thức được mình đang ở Hoang thôn, nằm trong phòng nhà trưởng thôn, những gì xảy ra đêm qua lại hiện lên rõ nét trước mắt tôi.
Đột nhiên, tôi lo lắng sờ lên tay trái mình, trên ngón trỏ chẳng còn gì cả, chiếc nhẫn ngọc đã thật sự rời xa tôi.
Sau khi ngủ dậy tôi phát hiện trưởng thôn đã chuẩn bị bữa sáng chochúng tôi từ sớm, cháo nóng bốc hơi nghi ngút ăn kèm với dưa muối củangười dân Hoang thôn khiến tôi húp lấy húp để sau cả đêm đói bụng.
Sắc mặt Xuân Vũ xem ra cũng khá hơn nhiều, hình như cô ấy đã thay đổi quan điểm về Hoang thôn.
Sau khi ăn sáng xong, chúng tôi tạm biệt vợ chồng trưởng thôn, vội vàng rời khỏi ngôi làng cổ kính này, khi ra tới đầu thôn, tôi khẽ hỏi XuânVũ: "Đêm qua cô có nằm mơ không?"
Cô ấy sững sờ một lúc, sau đó lạnh lùng đáp: "Có mơ".
Chắc là không phải mơ thấy "Hoàn" đâu nhỉ? Nhưng tôi vẫn thử hỏi thăm dò: "Cô mơ thấy ai?"
"Cao Huyền".
Câu trả lời này nằm ngoài sự tưởng tượng của tôi, nhưng trong tình hình và tâm lý lúc này, tôi không biết nên nói gì, chỉ biết gật gật đầu.
Ra khỏi tấm bia đá tiết hạnh, phía đông chính là biển đen mênh mông. Bờ biển lúc sớm mai mịt mù trong sương khói, những dốc núi phía tây kínmít những ngôi mộ. Trong bóng tối đêm qua vốn không nhìn thấy bia mộ,giờ thì đã rõ nét dị thường, tiếng sáo lúc nửa đêm chắc cũng được vọngra từ những ngôi mộ này.
Buổi sáng không có xe tới Hoang thôn, chúng tôi chỉ biết dựa vào đôichân. Đi trên con đường núi trơ trọi không có lấy một ngọn cỏ, quay đầunhìn lại Hoang thôn và ngón tay trỏ trống trơn, đột nhiên thấy buồn manmác, tận sâu đáy lòng còn buồn rầu hơn.
Tạm biệt Hoang thôn, tạm biệt "Hoàn", tạm biệt Tiểu Chi.
Trong sương khói mịt mùng sớm mai, tôi và Xuân Vũ cực nhọc đi bộ hơnmột tiếng đồng hồ, chân của chúng tôi giống như sắp gãy cả ra, cuối cùng thì cũng có thể leo lên một chiếc xe hướng tới thị trấn Tây Lãnh, lắclư chở chúng tôi về thị trấn.
Cuối cùng cũng đã trở lại thị trấn Tây Lạnh, cái tên này thật nên thơ,chỉ cách Hoang thôn một dãy núi, mà giống như từ địa ngục trở lại nhângian vậy.
Có độc giả đoán rằng cái tên "thị trấn Tây Lãnh" lấy từ trong tiểu thuyết Salem’s Lot 1 của Stephen King, trên thực tế tôi chưa từng đọc qua cuốn sách này (kểcả xem phim). "Tây Lãnh" vốn là một cái tên Trung Quốc hóa, nguồn gốcđến từ Chiết Giang, nếu mọi người có hứng thú thì có thể đoán xem.
Chiếc nhẫn ngọc đã bị tôi ném xuống biển. Bây giờ đối với tôi mà nói,nghi hoặc lớn nhất chính là A Hoàn (Lâm U) – giới hạn bảy ngày đã qua,cô ta còn sống hay đã chết? Tôi có thể tìm thấy tung tích của cô takhông nhỉ? Tất cả những điều này rút cuộc là vì cái gì?
Tôi bắt buộc phải nhanh chóng trở về Thượng Hải, chúng tôi đành phải ở lại thị trấn Tây Lãnh đợi đến buổi chiều.
Giờ là 9 giờ sáng, tôi và Xuân Vũ đi loanh quanh trong thị trấn, khôngngờ vừa mới rẽ một cái trên đường là đã nhìn thấy một cảnh tượng hoàntoàn khác.
Đây là một con đường cổ được lát đá xanh, hai bên đều là những ngôi nhà cũ kĩ quét vôi với mái ngói màu xanh đen, có những quán trà, quán rượu, quán cơm cổ kính, chắc là dáng vẻ của thị trấn Tây Lạnh 100 năm trước.
Chúng tôi đi vào một quán trà cổ, gọi hai chén trà nóng. Vừa mới ngồixuống chưa được bao lâu, người trong quán trà đã càng lúc càng đông, đasố đều là những ông lão bà lão tóc bạc phơ, họ ngồi vây quanh nhữngchiếc bàn, hình như đang chờ đợi điều gì đó xuất hiện.
Bỗng nhiên, một giọng nữ lanh lảnh cất lên từ sau tấm rèm trong quántrà, tiếp đó lướt qua một bóng phụ nữ mặc cổ trang, đó là chiếc áo gấpnếp thêu hoa thường thấy trong ca kịch Côn Khúc 2, phía dưới là một chiếc váy màu xanh, trên tay còn tung cả ống tay áothướt tha. Hóa ra là hát ca kịch địa phương, tuy mặt cô ấy hóa trangnhàn nhạt, tóc được bới thành kiểu hoa trâm, nhưng tôi vẫn có thể nhìnra tuổi tác của cô ấy không còn trẻ, chắc tầm ngoài 30 tuổi.
Những ông lão bà lão bên cạnh bắt đầu vỗ tay, trong quán trà này chỉ có hai thanh niên – tôi và Xuân Vũ hơi cảm thấy hơi ngại.
Tiế