
có trong tự nhiên,
có màu đỏ. Thành phần chính của nó là slfua thủy ngân (HgS)
(3) – Xã tắc: Xã: là nền xã thờ thần đất. Tắc là nền tắc thờ Thần Nông.
Ngày xưa, vua lập nước lấy dân làm trọng. Dân cần đất thì vua ban cấp đất đai cho dân và lập đền thờ tế lễ thần đất, chỗ tế Thần Đất gọi là
Xã, để cầu cho dân chúng sống yên ổn. Dân cần các giống ngũ cốc, vua cho tìm các thứ giống ấy phát cho dân cày cấy trồng trọt và lập đền thờ tế
lễ Thần Nông, chỗ tế Thần Nông gọi là tắc, để cầu cho dân chúng được
mùa.
Khi một vị vua phế bỏ triều đại cũ, lập ra một triều đại mới, vì vua
ấy cho phá bỏ đền xã tắc cũ, và dựng lên đền xã tắc mới cho triều đại
mới.
Kinh lễ nói: Thiên tử thi tế Nam giao, tức là tế trời, còn các vua Chư Hầu thì tế Xã Tắc.
Sách Hiếu Kinh: Nhiên hậu năng bảo kỳ xã tắc nhi hòa kỳ nhân dân.
Nghĩa là: nên về sau mới giữ gìn được xã tắc và hòa cùng dân chúng.
Ngày nay, từ ngữ Xã Tắc dùng để chỉ một quốc gia.
(4) – Bát Kỳ: Chính Hoàng Kỳ, Tương Trung Kỳ, Chính Hồng Kỳ, Tương
Hồng Kỳ, Chính Lam Kỳ, Tương Lam Kỳ, Chính Bạch Kỳ, Tương Bạch Kỳ
Ở Bắc Kinh có người nói rằng, "Đông phú Tây quý, Nam bần Bắc tiện",
"Đông phú Tây quý" có thể giải thích thế này, lấy Tử Cấm Thành làm ranh
giới, phía Tây gọi là "Tây thành", trong đó nhiều nha môn, nhiều quan
cai quản, đương nhiên trong đó cũng có nhiều quan, nên gọi là "Quý".
Ở các cấp bậc nghiêm ngặt của xã hội phong kiến, thì quan là tầng lớp bậc nhất, là người giàu có tiền của, nếu bạn không trải qua các kỳ thi
khoa cử, thì không có cấp bậc, cũng không thể qua lại với các quan lớn,
vì thế các phú thương lớn cũng tập trung ở phía đông của Tử Cấm Thành,
cũng thường được gọi là khu đông thành, nên gọi là "Phú".
"Nam bần Bắc tiện" là chỉ những lão bá tánh người Hán lánh nạn ở phía nam của bắc kinh thành. "Bắc tiện" nghe tên cũng đủ biết, lão bá tánh ở phía bắc địa vị đều thấp, chủ yếu là "Nô tài hoặc nô bộc" sống ở đây.
Nô bộc là tộc người Mãn, chính là tên gọi tắt của nô bộc A Ha (A
Cáp), đồng thời cũng là A Ha. Nô bộc tức là "Gia", A Ha tức là nô lệ,
tiếng Hán nghĩa là nô gia, nô lệ, nô bộc hoặc nô tài, bị giai cấp quý
tộc thượng tầng người Mãn chiếm giữ tất cả, bị bức làm đủ loại việc nhà
cho đến các công việc sản xuất nặng nhọc khác, không ai được tự do.
Nguồn gốc chủ yếu là từ tù binh của chiến tranh, tội phạm, những người
bị phá sản mắc nợ và con cái của nô bộc v.v. Đến khi Thanh triều được
thiết lập trên phạm vi toàn lãnh thổ, nô bộc cũng dựa vào công lao mà
được hiển vinh, như Li Wei (Lý Vệ), đối với chủ thì vẫn giữ nguyên thân
phận nô tài.
Đây là nét đặc trưng vốn có của tộc người Mãn Thanh triều, Thanh
triều đối với Bắc kinh thành thường luôn coi trọng, vì liên quan đến quê nhà của họ, nên kiểm soát tương đối nghiêm ngặt. Người ở Bắc thành cũng không phải người Mãn, cũng có nhiều người Hán bị quý tộc người Mãn
không chế, dần dần bán thân làm nô tài trong nhà người Mãn, có người có
biểu hiện tốt, đến nỗi đạt được "Sỹ kỳ", trở thành kỳ nhân của người
Mãn, nhưng dù sao thì thân phận nô tài, cũng vẫn là thân phận có địa vị
thấp kém.
Nhà của Xiu Er ở phía Bắc, theo như Xiu Er nói, trong gia đình ngoài
song thân ra, thì còn có một ca ca và một tỷ tỷ, tỷ tỷ thì đã xuất giá
rồi, nhà chồng cũng là nô tài, ca ca và tẩu tẩu (chị dâu) đều là người
an phận hiền lành, không biết lòn cúi nịnh nọt, đương nhiên cũng không
có việc gì tốt để anh ta làm. A Mã Ngạch Nương chỉ hy vọng Xiu Er ở
trong cung có chút thành tựu, tuy nhiên Xiu Er từ lúc mười bốn tuổi tiến cung cho đến giờ vẫn không có gì, trái lại còn chịu nhiều đau khổ, việc bị Yu phi ngược đãi người nhà của cô đều không biết. Vốn dĩ, người được tiến cung, tốt hay xấu đều dựa vào vận may.
Xiu Er dẫn bọn Xin Yi về đến cửa nhà mình. Năm mới, mỗi nhà đều giống nhau, trước cửa có dán câu đối, chữ "Phúc", trên mặt đất thì đầy xác
pháo.
Nhóm người của Xin Yi tuy không có ngồi kiệu, nhưng người đông, khí
thế cũng lớn, đến vùng đất "Bắc tiện" này, tỏ ra rất phô trương, trên
đường đi, đã có người ở cửa khẩu xem thế nào.
Nhìn thấy người nhà, Xiu Er như con chim nhỏ vui vẻ, thình thịch chạy vào cửa, "A Mã, Ngạch Nương, con về rồi!"
Mọi người cũng cùng vào, là một gian nhà tứ hợp viện (1) không lớn
lắm, nhà phía nam có 3 gian, trong sân lát những đường gạch màu xanh.
Nghe tiếng Xiu Er gọi, mọi người trong phòng đều vén màn cửa nhìn ra, thấy con gái, hai vợ chồng vừa lo vừa mừng.
Mừng vì tết lớn, con gái cũng về nhà, cả nhà có thể đoàn viên, lo là
vì con gái làm sao có thể ra khỏi hoàng cung, không biết đã xảy ra
chuyện gì.
"Ngạch Nương!" Xiu Er liền chui vào ngực mẹ, lệ rơi lã chã.
Ca ca, tẩu tẩu, tỷ tỷ, tỷ phu (anh rể) của Xiu Er đều ở nhà, thoáng
chốc đã vây lấy Xiu Er, hỏi han, Xiu Er cũng không biết trả lời ai
trước.
Vẫn là A Mã Heng Ji (Hằng Cát) của Xiu Er phát hiện bọn người Xin Yi đang đứng ở cửa, liền hỏi con gái, "Xiu Er, đó là......"
"A!" Xiu Er liền chạy đến bên Xin Yi, "Cách cách, nô tì quên luôn người rồi!"
Xin Yi cười, "Không sao, thấy cô và người