
dậy rồi à?”, ông cất tiếng hỏi. Bà vợ bảo: “Tôi thấy ông trằn trọc cả đêm chẳng ngủ nghê gì, tôi làm sao mà ngủ được”. Ông chồng kể lại với bà vợ giấc mơ đêm, với tiếng người gọi lúc gần lúc xa, chỉ mỗi câu: “Anh Thàng ơi, anh Thàng”. Bà vợ cả nghĩ, hay lo, liền hỏi chồng: “Thế tấm ảnh cái anh gì ở dưới xuôi cùng đơn vị với ông, mà ban chiều đi Bắc Cạn về, ông nói với tôi là chụp lại đẹp lắm ấy, đâu rồi?”. Tôi lại cuộn lại để trong rương cẩn thận cho nó mới, ông chồng thật thà nói với bà vợ. Bà Thàng ngồi xuống cạnh ông, đưa tay dúi thêm cây củi vào bếp, củi khô bắt lửa cháy phừng phừng. Nhìn ngọn lửa cháy như cười reo, bà bảo: “Sáng nay ông không đi nương nữa, ở nhà tìm xem còn cái khung kính nào thì bỏ cái hình của anh đồng ngũ với ông người dưới xuôi vào, rồi lập chỗ thờ anh ấy, ông ạ. Không anh em máu mủ ruột rà, nhưng người ta đối với mình còn hơn cả anh em ruột thịt. Ngày ông ở bộ đội về, ông đã chả nói với mẹ con tôi là ông còn sống về được đến nhà, là nhờ có ân nhân cứu mạng là gì!”. Nghe bà vợ nói, ông Thàng bất giác quay lại như muốn ôm chầm lấy vợ, có thế mà cả đêm tôi không nghĩ ra. Một lần nữa ông như thầm cảm ơn bà vợ đảm đang, hiền thục, lúc nào cũng như thấu hiểu bụng dạ chồng. Hôm sau ông nghỉ hẳn một buổi ở nhà, tháo cái giấy khen cũ ra khỏi tấm kính có khung gỗ sơn viền màu hoa đào, rồi để tấm ảnh Bao phóng to bằng tờ giấy kẻ học sinh vào đó. Nơi đặt chỗ thờ Bao ngay gần ban thờ gia tiên nhà ông, cũng một bát hương, một lọ lộc bình do chính Thàng ra ngoài cửa hàng xã mua về. Tấm ảnh lồng trong khung kính được đặt trên một miếng gỗ cho cao hẳn lên sau bát hương. Tết nhất, tuần rằm, mồng một, ban thờ có thứ gì cúng gia tiên thì trên chỗ thờ Bao cũng có thứ đó. Mỗi khi có người lạ đến nhà, nhìn ban thờ gia tiên thấy duy nhất một chỗ thờ lại có tấm ảnh phóng to, hỏi thì Thàng chỉ nói, đấy là người anh em kết nghĩa của tôi.
Nhưng sáng ấy, cả ba người khách dưới xuôi từ giường ngủ đi ra, thì không biết do thần linh sai khiến hay giác quan thứ sáu mách bảo, ông Thàng gọi giật cả ba người lại chỗ ban thờ đang nghi ngút khói hương và lờ mờ ngọn đèn dầu nhỏ như hạt đỗ, chỉ vào bức ảnh người đàn ông vận áo sơ mi trắng, khẩn khoản hỏi:
- Ba người có biết người trong ảnh kia quê ở đâu không?
Điền nhanh nhẹn kiễng cao chân nhìn lên ban thờ, ngọn đèn quá nhỏ không thấy rõ khuôn mặt người trong ảnh. Anh xin phép ông Thàng cho lấy khung ảnh xuống, mang ra ngoài cửa nhìn cho rõ. Ông Thàng bắc cái ghế con đứng lên, đưa tay cởi dây buộc ở chỗ cái khuy trên khung ảnh, tháo xuống, đưa cho Điền. Ba người đàn ông miền xuôi và một người đàn ông miền ngược cùng chụm đầu nhìn vào tấm ảnh lồng trong khung kính. Mãi vẫn không sao nhận ra người trong ảnh là người nào, có dây mơ rễ má gì với mình không. Điền nhìn tấm ảnh một lúc lâu, hỏi:
- Tấm ảnh này anh Thàng phóng từ một ảnh khác ra, thế cái ảnh kia đâu?
-Mình vẫn cất kỹ trong rương kia.
Đoạn, Thàng bước nhanh đến chỗ cái hòm rương để những thứ đồ vật quý giá của gia đình, mở nắp, lấy chiếc ví da mang ra cửa, chỗ ba người đàn ông dưới xuôi đang chăm chú nhìn bức ảnh phóng. Khi ông Thàng vừa rút tấm ảnh nhỏ bằng hai ngón tay ra khỏi ví, Liểu và Điền còn chưa kịp nhìn vào ảnh, thì đã nghe tiếng Bính nói lạc cả giọng:
- Ơ, ảnh bố mẹ cháu! Tấm ảnh này giống y hệt tấm ảnh mẹ cháu đang giữ. Bính vừa nói vừa giật thốc tấm ảnh trên tay ông Thàng, hỏi trong hơi thở gấp, rõ ràng đang xúc động lắm lắm:
- Sao bác lại có ảnh bố mẹ cháu? Bác nói đi, bác Thàng! Bố cháu hy sinh ở đâu? Có mai táng được không, hả bác?
Cả ba người đứng ngây ra nhìn Bính. Bà vợ ông Thàng thấy thế cũng bỏ nồi cơm đang sôi trên bếp chay ra, đặt cả hai tay lên vai như ôm lấy Bính:
- Đúng bố cháu hả! Ối, thế thì hai bác cũng mừng là cuối cùng người có nhân có đức vẫn gặp lại được người thân thích ruột rà của mình. Cháu không phải hỏi gì nhiều nữa, ông Thàng nhà bác đây chính là người được bố cháu cứu mạng mà.
Hai ngày sau, chiếc ô tô tải do ông Thàng dẫn Điền vào lâm trường hợp đồng thuê chở sắn về xuôi, cùng ông Liểu, Điền và Bính từ từ lăn bánh rời cửa hàng mua bán xã Hữu Bằng. Trước lúc lên xe, mọi người được chứng kiến một cảnh cảm động: ông Thàng đưa tấm ảnh vợ chồng Bao cho con trai độc tôn của người trong ảnh, rồi cả hai vợ chồng dang rộng đôi tay khẳng khiu ôm chặt lấy Bính, như ôm đứa con lần đầu rời nhà làm chuyến đi xa. Giây lát, chờ cho Bính cẩn thận cất tấm ảnh vào túi áo ngực, ông Thàng nắm cánh tay Bính dặn đi dặn lại, cháu về bảo mẹ cháu cứ yên tâm, nhất định bác sẽ nhờ anh em ở trong kia đến nơi để bố cháu năm nọ, xem có còn phần mộ ở đấy không, hay đã đem về nghĩa trang nào rồi, thì bác viết thư cho. Còn Bính, lúc đứng ở dưới xe, trước mặt vợ chồng ông Thàng và bà con xóm bản ra tiễn, chỉ thấy mắt cay cay không nói được câu nào. Nhưng vừa trèo lên xe, ngồi lọt giữa đống sắn ông Liểu và Điền quây lại để làm chỗ cho ba người ngồi, và khi mỏi có thể dựa lưng vào nhau mà ngủ gà ngủ vịt về tới nhà, Bính lại như nép vào vai Điền nói rành rẽ từng tiếng, như chưa bao giờ biết nói nhữn