
Cơm xong, thông cảm với khách mấy ngày đi
đường xa, ông Thàng giục thằng con dọn giường phòng đầu nhà cho chú với hai anh
đi nằm cho đỡ mệt.
Cũng như bao gia đình dân tộc ở miền núi, nhà ông Thàng dành
hẳn nửa nhà phía ngoài làm nơi khách khứa, cơm nước. Mùa đông thì đặt bếp củi
ngay gian đầu nhà, vừa cơm nước, vừa sưởi ấm. Còn mùa nóng thì đun nấu xuống
gian bếp, làm chếch ra ngoài nhà trên. Nửa gian nhà phía trong được ngăn ra làm
nhiều phòng ngủ của vợ chồng, con cái, và phòng dành khi có khách đến nghỉ qua
đêm. Bàn thờ gia tiên cũng đặt ở gian giữa nhà như người miền xuôi, chỉ khác là
được đóng hẳn vào giữa hai cây cột cái đẫy gian, to và rộng.
Ông Liểu, Điền và Bính được thằng con ông Thàng dẫn vào gian
phòng đầu nhà phía tây. Phòng chỉ kê một cái giường rộng, toàn bằng những tấm
gỗ ván ken nhau, trên trải chiếc chiếu cói hoa nhưng có lẽ mua đã lâu, lại ít
khi có người nằm, chiếu mốc trắng màu phấn và nhiều chỗ rách nham nhở. Thế
nhưng cả ba người vừa đặt mình xuống là ngáy như bễ lò rèn. Không ai biết ông
chủ nhà lúc đêm làm gì. Cả bà chủ nhà nữa. Có lúc tìm bao diêm không thấy, bà
còn xuống bếp thổi lửa, thắp đèn mang lên nhà cho ông. Đi lại thế mà mấy người
khách vẫn không biết, thì đúng là ngủ như chết thật.
Còn ông Thàng, mấy ngày đi chơi nhà người quen dưới Chợ Chu,
chờ đợi xe cộ, đi lại nhiều cũng mệt, chập tối đặt mình xuống cũng thiếp đi
ngay. Nhưng trong giấc ngủ say, ông như thấy có người lay vai gọi. Tiếng gọi
nghe không rõ là gọi gì, nhưng đích thị là có người gọi, lạ thế. Lúc rất gần,
như lẩn quất đâu đây. Lúc lại rất xa, xa lắm. Nhưng rõ ràng có tiếng người từ
một cõi nào nỉ non, thao thiết gọi. Lại gọi đúng tên ông, bằng một sự kính
trọng “Anh Thàng ơi, anh Thàng!”. Nhưng khi ông mở mắt ra thì tiếng gọi lại
dừng. Ông trân trân nhìn vào đêm tối. Đêm tối vẫn lặng im, với một màn đen dầy
đặc. Nhưng cứ nằm xuống thì lại như người mộng du, lẩn quất bên tai tiếng người
đàn ông gọi mỗi lúc một gần, một nỉ non, thao thiết, như thể không gọi thế thì
người nghe không biết phải làm gì, lại có thể sẽ quên thôi. Thế là ông Thàng
không còn bụng dạ nào nằm lại được nữa. Ông ngồi dậy, lấy quần dài và áo dài
tay mặc vào, rồi nhẹ nhàng buông hai chân xuống đất, thọc vào đôi dép cao su
đen có cả quai hậu. Khi ông đang cúi xuống kéo chiếc quai hậu cho lên gần mắt
cá chân, thì bà vợ cũng ngồi dậy, hai tay vén mái tóc ra phía sau, giọng nhẹ và
ấm:
- Ông sao thế? Đang ngủ lại dậy. Có khát nước để tôi đi lấy
cho?
Ông Thàng bảo:
- Không, tôi không khát nước. Bà biết bao diêm lúc tối để ở
chỗ nào không?
- Ông đốt đèn lấy gì à? Để tôi đi lấy diêm cho.
Bà Thàng lại chỗ ban thờ giữa nhà, chắc là tìm bao diêm, một
lát lại thấy thập thõm bước về phía bếp lửa đầu nhà, vẫn còn thơm mùi than củi
ủ. Bà cầm cái ống thổi phù phù vào đống than củi, làm bay lên những cái tàn đỏ
lừ chờn vờn như sao sa. Khi cái thanh tre nhỏ như que đóm trong tay bà cháy
bùng lên, cũng là lúc ông Thàng đi đến ngồi xà xuống bên cạnh, giọng nhỏ và
trầm, như đang có điều gì xúc động lắm:
- Bà còn nhớ cái ngày tôi mới ở bộ đội về, tôi hay nói với
mẹ con bà là tôi sống được mà về đến cửa đến nhà cũng là nhờ có ân nhân cứu
mạng không?
- Còn nhớ. Nhưng
là sao?
- Đêm nay tôi
thấy anh ấy về, chẳng khác gì năm đã lâu, bà ạ!
Bà vợ vội ngẩng
lên:
- Thật thế ư! Anh
ấy nói với ông những gì?
- Nói những gì,
tôi không sao nghe rõ. Nhưng nhất định là có nói, nói lâu, nói nhiều. Lại còn
cảm ơn tôi nữa, thì không hiểu là thế nào?
Hai người cứ ngồi bên bếp lửa cháy phừng phừng, chốc chốc ngọn lửa lại như reo lên cuồn cuộn. Cái kiểu lửa cười thế này thì đúng là chỉ có báo niềm vui, mang may mắn đến nhà, chứ không thể là điềm gở. Niềm vui thì có, một lúc được đón những ba người khách phương xa đến nhà, sao lại chả vui. Nhưng may mắn thì, chẳng lẽ cái việc ông mới bàn hồi chiều với mấy người ngoài cửa hàng mua bán xã, chia nhau đi mua sắn giúp ba người dưới xuôi lên, lại thuận lợi nhanh chóng thế ư. Nhưng nếu thế, sao lại như có người lay vai gọi. Không chỉ gọi, còn nói những lời như mới xảy ra hôm qua, hôm kia đây thôi.
Nhưng cũng đã qua đi mười mấy năm rồi.
Hôm ấy cũng vào một đêm cuối tháng tối trời như đêm nay. Tham mưu trưởng tiểu đoàn Nông Văn Thàng cùng trợ lý tham mưu Phạm Khắc Bao và cậu Vang liên lạc đi thị sát một căn cứ Mỹ-nguỵ nằm trên đường đến thị xã Kon Tum. Khi vào, và già nửa quãng đường trở ra, gần như an toàn tuyệt đối. Vậy mà đùng một cái, khi ba người đang bò ra, bất ngờ nghe tiếng đạn bắn như mưa qua đầu và những quả pháo sáng đỏ rực, lửng lơ trên trời, soi rõ mọi vật trên mặt đất. Cậu liên lạc bò đi trước, đến Thàng, rồi Bao, ba người vẫn giữ cự ly. Thình lình nghe tiếng quả đạn pháo nổ bụp ngay bên cạnh, và một vật gì đổ ập lên lưng như ấn Thàng nằm sấp xuống đất. Thàng chưa kịp nhận ra cái vật đổ ập lên lưng ấy, đã nghe hực một cái, cùng tiếng kêu “Ôi, anh Thàng ơi!”, ngay trên lưng mình rồi. Một đường đạn cắt ngang người Bao, máu chảy ướt đẫm áo Thàng. Khi Thàng đặt được Bao nằ