
cân phân chuồng, đang đi bỗng đòn gánh gãy, Phượng ngã quỵ xuống bờ ruộng, một bên quang sảo đè lên lưng. Phượng bị sảy thai, băng huyết, phải đưa đi bệnh viện huyện. Từ đấy, không biết có phải do quen máu, hễ lần nào có chửa là y như rằng, chỉ giữ được vài tháng cái thai lại ra. Những năm sau này, khi Thuật đã xuất ngũ, vợ chồng có dịp gần nhau, có dạo chỉ già nửa năm Phượng sảy thai đến hai lần. Thế là sợ chết khiếp, hễ gần đến ngày kinh nguyệt là Phượng lại lảng xa chồng, thậm chí nằm chung giường cũng không dám, chỉ sợ chồng đi họp hành tiết canh lòng lợn bia rượu vào, đang đêm lại tý máy tý mẻ là lại có chửa, mà chửa, lại sảy thai băng huyết lần nữa, quá tam ba bận, chỉ còn nước chết. Thế nên Phượng cạch, không dám đẻ đái gì nữa. Đúng là con người ta không biết thế nào. Chẳng lẽ ngay cả đường con cái, câu của người xưa: “kẻ ăn không hết, người nần không ra”, vẫn cứ đúng. Thế nên, mỗi lần sang nhà chú em, nhìn lũ cháu đùa nghịch như quỷ xứ, nghe vợ chồng em trai ca cẩm con cái chỉ biết bày bừa ra nhà, chứ không biết đường dọn dẹp, Thuật vừa thấy ghen tỵ với vợ chồng em con đàn con đống, lại vừa thấy thảnh thơi, quang quẻ cửa nhà, một khi vắng bóng trẻ mỏ đùa nghịch bừa bộn.
Thấy ông anh cả quay lại nhìn cái ghế mình vừa đặt xuống, miệng lẩm bẩm như mắng: “Ai bảo đẻ lắm vào, còn kêu!”, Lận vội cúi xuống chân bàn lấy cái giẻ lau lau mặt ghế, rồi cười tuế toá:
- Nhiều lúc nghĩ bực lắm, bác ạ. Chỉ muốn đét cho mỗi đứa mấy cái cậng chổi!
Thuật cười buồn:
- Chú bực, chứ tôi dẫu muốn cũng chả có mà bực!
Thuật nói xong, cả hai anh em như rơi vào im lặng. Lận lẳng lặng lau ghế, rồi lau bàn. Xong lại đổ ít nước từ chiếc ấm trong dành tích ra bốn cái chén cáu vàng nước chè, không biết từ bao giờ, rồi quấn một đầu giẻ vào ngón tay trỏ đưa vào lòng chén kỳ cọ từng cái một, ra ý dềnh dàng chờ vợ đi mua chè về. Còn Thuật ngồi xuống chiếc ghế em trai vừa lau, lặng lẽ đưa mắt ra ngoài sân, chỉ có một vệt sáng nhạt nhoà từ chiếc đèn soi cá treo trong nhà hắt ra, nhưng cũng đủ để Thuật nhìn thấy ngoài sân, ngoài vồng, cả ngoài đường ngõ xóm chạy qua trước nhà, có ai qua lại? có động tĩnh gì? Nhưng chỉ thấy im ắng đến phẳng lặng. Không tiếng bước chân người. Không tiếng gió thổi. Đến tiếng lợn gà, ngan vịt tranh ổ, động chuồng cũng không. Tiếng chó sủa lại càng không nữa. Vì lệnh cấm nuôi chó vẫn được đọc đi đọc lại ra rả trên đài truyền thanh huyện theo đường dây có loa kim mắc vào tận các nhà, có cho ăn kẹo cũng không đâu còn dám nuôi chó. Không có tiếng chó sủa, xem ra xóm làng đêm hôm cũng thấy văng vắng, thiêu thiếu cái gì. Chỉ có sự im ắng, phẳng lặng, làng xóm chưa hẳn đã hay. Nó còn phải thế nào nữa kia. Tiếng gà kêu. Tiếng chó sủa. Tiếng lợn réo đòi ăn. Tiếng sừng trâu cọ vào róng cồm cộp. Tiếng kẽo kẹt của khóm tre bờ ao. Và cả tiếng chửi nhau như hát hay của hai nhà liền kề, chỉ mất mỗi quả khế chua mà cho nhau ăn đủ thứ ngon vật lạ. Thuật ngồi lặng lẽ nhìn ra vệt sân nhạt nhoà ánh sáng đèn dầu, trong đầu chập nhờn những ý nghĩ rời rạc, đứt quãng. Giây lát, có tiếng Hoan chao chác ngoài ngõ, chứ cũng chưa nhìn rõ người:
- Ối giời, chẳng mấy khi bác cả lại chơi mà chạy vào mãi ông Vở, nửa làng trong mới mua được bò chè.
Lận cũng vừa lau xong chiếc chén cuối cùng trong cái khay nhôm, lơ đễnh nhặt tùng chiếc để ra bàn, rồi cầm khay đứng lên đi ra cửa, hắt tẹt khay nước ra sân:
- Sao không vào bà Quý, chè gì chả có.
Hoan né người tránh chỗ nước chồng vừa hắt ra:
- Ối giời, chè bà Quý chỉ thợ thuyền, xóm láng với nhau uống thì được. Chứ khách như bác cả mà bố nó lại bảo đi mua chè bà Quý, về để bác cười cho à.
Thuật nhìn cô em dâu đẹp người lại đẹp cả nết, biết tính ông anh không uống thì thôi, đã uống là phải chè móc câu Thái Nguyên chính hiệu, chứ còn uống chè bồm, chè cám, thà uống nước vối còn hơn. Thuật nhìn cô em dâu, nói như dàn hoà:
- Thôi, chè nào uống chả được, hả thím!
Hoan đưa gói chè cho chồng, quay lại thấy hai chị em cái Lạng vẫn ngồi cạnh nhau chỗ đầu giường, sau cái ghế bác cả ngồi, liền bảo:
- Hai đứa đưa nhau xuống nhà dưới, xem bài vở thế nào học đi chứ, ngồi đấy hóng hớt à!
Hai chị em con bé nghe mẹ nói như quát, lấm lét đứng lên đưa nhau xuống nhà ngang.
Trên nhà chỉ còn lại ba người lớn. Lận mở gói chè, dốc vào cái hộp, nguyên là vỏ hộp đựng sữa bột Trung Quốc, còn để lại một dúm, đang khum khum tờ giấy gói, định dốc chè vào chiếc ấm con để trong khay. Thuật vội dơ tay ra ngăn:
- Ấy, từ từ. Chú phải rót nước sôi vào ấm, xúc sạch, rồi đổ đi đã. Sau mới cho chè vào, lại đổ một ít nước sôi vào ấm, lắc lắc mấy cái cho bao nhiêu thứ bụi bậm dính vào những cánh chè nó ra hết đã. Xong lại đổ nước ấy đi, như kiểu tráng chè ấy mà. Bấy giờ mới rót nước sôi vào ấm. Rót làm sao cho vừa với lượng chè cho vào, lại cũng vừa số người uống, đủ mỗi người một chén, đến hai là cùng. Nhiều quá là nhạt, ít quá là chát. Cái giống trà uống nhạt hay chát đều mất hương vị, không ngon. Phải uống đậm đà, vừa phải, mới thấy hết cái ngon của chè, chứ còn uống xô bồ kiểu chú, thà uống nước vối cây nhà lá vư