
à em ruột tôi, nhưng bên ngoài chú là chủ nhiệm hợp tác toàn xã, lại là một trong ba uỷ viên ban thường vụ đảng uỷ. Thế nên đã làm việc gì lại càng phải thống nhất, chứ không, ông chằng bà chuộc bên ngoài người ta cười. Mà người ta cười chú, hoặc cười tôi, cũng là cười cả ban thường vụ đảng uỷ, thường trực uỷ ban và ban chủ nhiệm hợp tác xã. Chứ lại không ư. Ông Sa tiếng là bí thư, nhưng từ khi mổ ruột thừa về, đến ăn còn không được, huống hồ là làm. Thế nên, chỉ còn tôi với chú chèo chống phong trào, thì càng phải làm sao giữ cho dân yên lành, đừng để đơn từ kiện cáo kéo nhau lên huyện, lên tỉnh, rồi tận trung ương như Đồng Tâm, Đồng Triều bên kia, là anh em mình đầu không phải cũng phải tai đấy, chú ạ. Còn cái việc xô xát ở Phương Lưu, sự thực cũng là tại anh tại ả tại cả đôi bên. Huyện đương đâu đưa mấy chục con lợn về bắt trại người ta nuôi, rồi bỗng nhiên lại đánh xe xuống bắt lợn chở đi. Cứ làm như bao nhiêu ngày lợn của các ông ấy chỉ toàn uống nước lã mà sống, chứ không cần rau bèo, cám bã, công sá chăn nuôi gì. Nhẽ nào dân người ta chẳng tức.
Thuật vừa nói đến đấy, Lận vội nói chen:
- Nhưng mà bác ơi, em nghe mấy đứa cờ đỏ làng mình nó thầm thì với nhau, là nguyên nhân xô xát lại không phải vì mấy chục con lợn đâu, bác ạ.
Thuật chả tin cái chú em đầu củ chuối lại có thể có được thông tin đắt giá, liền cười mỉa:
- Không vì mấy chục con lợn thì còn vì cái đ. gì nữa, mà còn phải nghe mấy đứa cờ đỏ với chả cờ vàng. Có nó sui dại chú thì có. Động vào cái dân hàng trại ấy đừng có đùa. Chú thử giam mấy người đó hết đêm nay, ngày mai xem, không lại dân tình kiện cáo kéo lên chật trụ sở, như cái vụ gặt tranh điền năm nọ, tôi chớ kể.
Thuật vừa nhắc đến vụ gặt tranh điền, như nhắc đến một bóng
ma từ mấy năm nay vẫn ám ảnh ông chủ tịch xã.
Thực, bấy giờ Thuật chưa làm chủ tịch, mới chỉ làm phó chủ
tịch phụ trách công an, cái chân Đĩnh ngoài Phương Lưu đảm trách bây giờ. Còn
Lận bấy giờ làm phó chủ nhiệm hợp tác xã toàn xã. Vừa sáp nhập bốn hợp tác xã ở
bốn làng thành hợp tác xã toàn xã được vụ trước, vụ sau liền xẩy ra cuộc tranh
điền có một không hai trong lịch sử điền địa, không những của xã này, mà còn
của cả huyện này, tính đến ngày ấy.
Nguyên cánh đồng Mái xa xưa là ruộng của dân ngoài xóm trại,
thuộc loại mật điền, cấy năm hai vụ chiêm mùa ăn chắc. Khi sáp nhập bốn hợp tác
xã làng thành hợp tác xã có quy mô toàn xã, ruộng đất gần xa, tốt xấu được dồn
lại, rồi chia đều cho các đội sản xuất, cũng là bốn làng, bốn hợp tác xã trước
đây. Vậy là để cho công bằng, có gần có xa, có tốt có xấu, xã viên của đội này,
làng này có khi phải sang tận cánh đồng ở ngay sát làng kia, đội kia để nước
nôi, cày bừa, phân gio, cấy gặt. Còn ruộng kề làng mình có khi lại dân làng
khác kéo nhau sang cày bừa, nước nôi, phân gio, cấy gặt cũng là chuyện thường.
Kể cũng vui, người làng này với người làng kia nếu không có sự bình quân, công
bằng đất đai canh tác, có khi cả năm, cả đời cũng chẳng qua lại làng nhau làm
gì. Giờ bỗng dưng một năm tứ mùa không biết bao nhiêu lần đi lại, không chỉ đi
lại bằng đôi chân, còn dong cả trâu, kéo cả xe cải tiến, đánh cả xe bò chở phân
gio, lúa má lộc cộc, lốc cốc còn thiếu băm nát đường làng người ta ra nữa. Mà
đường làng thì có phải ở đâu cũng chỉ đắp đất, rải gạch xỉ lò, hoặc đập gạch vỡ
rải đều lên trên. Có con đường chạy vào làng như đường làng Phương Trì, Phương
Trà nát toàn bằng gạch đóng cheo của các cô gái làng lấy chồng, mỗi người nộp
đủ ba trăm viên gạch chỉ, già đến mức gõ coong coong như gõ vào tấm phiến đá,
cho làng nát đường. Thế mà bây giờ người từ làng khác quanh năm tứ mùa phân
gio, xe cộ đi như băm đường người ta ra thì ai mà chịu nổi. Thế là sinh chuyện.
Làng này bắt làng kia mỗi vụ phải nộp trả ngần này
gạch, ngần này tiền công sửa chữa lại đường, nát lại những
chỗ gạch bị vỡ. Ôi dào, chuyện nhỏ, mấy trăm viên gạch đáng gì, hợp tác xã có
những bốn khẩu lò, mỗi tháng ra lò hàng chục vạn viên gạch, chỉ cần cái phẩy
nhỏ trong số ấy các ông các bà cũng nát đường bại. Đúng là chuyện nhỏ, so với
một hợp tác xã có quy mô toàn xã, gồm gần năm trăm héc- ta đất canh tác, với số
dân hơn vạn người, nên cũng chẳng ai quan tâm, không ai đứng ra giải quyết.
Cộng với sự tiếc nuối cố hữu của người nông dân với mảnh ruộng, xứ đồng của
dòng tộc, làng xóm mình, bỗng bị người từ nơi khác đến chiếm hữu. Nên cái
chuyện tưởng như nhỏ nhặt, tiểu nông ấy đã không còn là nhỏ nữa. Sau thời gian
âm ỉ như hòn than hồng ủ dưới lớp tro, đến vụ gặt tháng mười năm ấy, bà con xã
viên đội Phương Trì, như lệ thường, kéo nhau ra cánh đồng Mái gặt lúa. Đồng Mái
nguyên là ruộng thuộc loại mật điền của làng Phương Lưu, nay điều chỉnh lại đất
canh tác giữa các làng cho công bằng, có tốt có xấu, hợp tác xã toàn xã mang
chia cánh đồng Mái ra làm hai: một nửa diện tích vẫn thuộc đội sản xuất Phương
Lưu, còn nửa kia là của đội Phương Trì.
Buổi sớm một ngày tháng mười trời dầy đặc sương mù. Màn
sương bồng bềnh như sợi tơ bông la đà trên mặt ruộng, vấn vương vào những bôn