
ó lại cãi trắng đi thì sao”. Thuật bỗng thấy giận ông đội
phó Phương Trì nông nổi, cứ làm như đám trẻ trâu mạnh ai nấy cãi là được. Nhưng
đã nghe Hưởng bảo: “Các bác cứ khiêng bác ấy về trạm y tế, đã có tôi với bác
Thuật ra giải quyết đây rồi”. Hưởng vừa dứt lời đã thấy bà thợ gặt bị thương
lồm ngổm đứng dậy, nét mặt không có vẻ gì là đau đớn lắm. Bà ta nói chậm và rõ:
“Tôi còn đi được”. Rồi kẹp chiếc nón vào nách, đưa hai tay ra sau gáy quấn lại
mớ tóc đang xoã sau lưng, tập tững đi. Hưởng, rồi Thuật, vội quay sang hỏi mấy
người cũng đang vừa cười, vừa nói, đi cùng bà thợ gặt bị thương ra đường cái.
Thì ra, đúng là đám cờ đỏ Phương Lưu có bắn vào chân bà ấy
thật, nhưng chỉ thủng một đám chỗ ống quần, sượt một tý vào bắp đùi, chẩy một
ít máu, đắp mấy mồi thuốc lào vào, buộc cái lá rau cải gói trầu thuốc một tý là
cầm ngay. Thực tình, một ông liến thoắng nói, súng nghe bắn chí chát thế, nhưng
toàn bắn chỉ thiên doạ nhau thôi, chả biết sao lại có thằng mới tập bắn, nên
đạn mới đi ngang thế không biết. Nhưng đội phó Phương Trì cầm quân ra gặt ngoài
cánh đồng Mái lập tức có bé xoé ra to, cắt luôn một bên ống quần của bà ta buộc
ngang bắp chân làm băng, rồi cử mấy người thay nhau cõng bà thợ gặt bị thương
lui về tuyến sau, để chờ bên Phương Lưu chấp nhận điều kiện đã.
Chưa biết điều kiện bên Phương Trì đưa ra là gì, nhưng khi
xe đưa Thuật và Hưởng ra tới nơi, thì cuộc chiến tranh điền đã im tiếng súng,
hai bên chỉ còn đứng dàn thành hai hàng trên hai phía bờ ruộng. Gậy gộc, súng
ống, cả liềm hái của đám thợ gặt Phương Trì và đám cờ đỏ Phương Lưu đều đã bỏ
cả xuống, người để ngay dưới chân, người khoác qua vai, người khoành hai tay
giấu vật dụng ra sau lưng. Nếu không được nghe tiếng súng chí chát vừa nãy,
không ai có thể nghĩ những người kia vừa qua trận khẩu chiến, có cả sự hăm doạ
bằng hung khí, suýt có người thiệt mạng. Thấy Thuật đi với một người lạ bằng
chiếc xe ô tô ra, cả hai bên đều hiểu mình có khi đã đi quá đà, không ai bảo
ai, hai bên đều lặng lẽ nhìn về phía chiếc xe. Trong khi Thuật đi lại chỗ ông
Rục, đội phó đội Phương Trì, cầm quân ra gặt đồng Mái, thì Hưởng đi vào ruộng
lúa, giữa những người hai làng đang dàn hàng ngang, nói dõng dạc:
- Các bác có biết các bác dàn trận đấu khẩu với nhau, lại có
cả súng ống nữa thế này là sai không?
Bên Phương Trì chưa ai lên tiếng, nhưng bên Phương Lưu đã ào
lên:
- Không sai! Không sai! Chúng tôi chỉ đòi lại ruộng của cha
ông, chứ không động đến người nào.
- Không động đến người nào, sao lại bắn vào một bà bị thương
kia!
- Đấy là súng cướp cò, chứ chúng tôi không định bắn vào
người!
Thuật đi ra gần chỗ Hưởng:
- Tôi là phó chủ tịch uỷ ban xã, còn đây là đồng chí Hưởng,
phó chủ tịch uỷ ban huyện, xin thay mặt cho xã và huyện đề nghị bà con hai làng
Phương Trì và Phương Lưu bớt giận làm lành, giải tán ngay cho!
Một ông phía Phương Lưu bước lên mấy bước, gào thốc bộ:
- Ông phó chủ tịch xã muốn chúng tôi giải tán, thì phải
tuyên bố trả nửa cánh ruộng đồng Mái này cho Phương Lưu đã!
- Đúng đấy!
- Trả ruộng cho xóm trại chứng tôi ngay!
- Trả ruộng cho xóm trại…!
- Trả ruộng cho xóm trại…!
Hưởng nghe thấy rất rõ, từ trong đám người Phương Lưu đồng
thanh phụ hoạ lời của ông kia: “Trả ruộng cho xóm trại…Trả ruộng cho xóm
trại…!”. Bỗng nhiên, Hưởng thấy dựng hết tóc gáy. Dè chừng,”trai hàng trại, gái
hàng cơm”, không cẩn thận có khi vỡ mặt với cánh này. Hưởng bước lên mấy bước,
nói cứng:
- Tôi thay mặt uỷ ban huyện đổng ý chấp nhận yêu sách… à,
yêu cầu của bà con xóm… đội Phương Lưu. Nhưng đề nghị bà con giải tán, đâu về
đấy ngay cho!
Không chờ Hưởng nói câu sau, chỉ mới đến “chấp nhận yêu
cầu”, tức thì những người phía Phương Lưu đã huơ chân múa tay reo hò ầm ĩ.
Quả là Hưởng đã cứu cho Thuật bàn thua trông thấy. Thuật như
thầm cảm ơn Hưởng, nhưng lại quay lại giục ông Rục bảo bà con làng ta về đi,
mọi việc đâu sẽ vào đấy thôi mà.
***
Nhưng cái vụ tranh điền năm ấy còn ám ảnh Thuật, và cả Hưởng
nữa chứ, như một bóng ma, mỗi khi đội sản xuất Phương Lưu, hay làng Phương Lưu,
hay xóm trại lẻ ngày xưa thì cũng thế, xẩy ra chuyện này chuyện nọ đụng chạm
đến hàng xã, hàng huyện, là Thuật không thể không nhớ đến cuộc tranh điền giữa
vụ gặt tháng mười năm ấy. Và có lẽ bởi cái bóng ma kia ám ảnh, nên Thuật để
ngoài tai câu nói của Lận: “Nguyên nhân xẩy ra xô xát lại không phải là mấy con
lợn đâu, bác ạ!”, mà lẽ ra, với một người ở cương vị Thuật không thể bỏ qua.
Lận nghe ông anh nói với một vẻ bực dọc và sẵng: “Không vì
mấy con lợn còn vì cái đéo gì “, cũng không dám ho he hóc hách gì nữa, vội cầm
ấm chè rót lượt ra hai chiếc chén, rồi hai tay trịnh trọng bê một chén lên đặt
trước mặt Thuật:
- Em mời bác uống chén nữa. Chè ngọn nước gốc, giờ mới ngon.
Thuật bưng chén nước lên để gần miệng hà hít hơi chè, giây
lâu mới nghiêng chiếc chén cho nước trà chẩy chẩm chậm vào cổ. Đoạn, đặt chiếc
chén xuống khay, mồm hơi chúm chím, xục xục hai hàm răng phát ra tiếng kêu chép
chép, chép chép nghe giòn và êm. Lận n