
g không hỏi.
Lận cứ ngồi ngay đơ ra nhìn ông anh đầy quyền uy cả về chính trị, kinh tế và
tình cảm nội tộc. Chứ còn biết nói gì, khi mọi việc đã được Bồ Tát sắp đặt
trước. Kể cả sinh mạng và chức tước của Lận cũng được Quan Thế Âm nhỏ từng giọt
trong cái nậm thần kỳ nơi tay Ngài xuống khi nào mát mặt khi ấy, còn không,
cũng không thể nói trước điều gì. Huống hồ cái câu hỏi mà Lận không có lấy một
phần mười giây lựa chọn cách trả lời kia.
- 15-
Không vào ngày nghỉ, nhưng Cải cũng dành một ngày xuống chơi
ông Mải.
Dắt chiếc xe đạp qua cổng. Rồi vào sân. Đến cửa. vẫn thấy
nhà yên ắng, lành lạnh thế nào. Chẳng lẽ ông cụ ốm? Hay có ai làm sao đi bệnh
viện? Không có lẽ! Mấy hôm nọ còn bảo vì chuyện Điền bị bắt giam ngoài xã, nên
ông lão buồn bực đóng cửa nằm trong nhà. Chứ hôm nay, Cải biết Điền không nhũng
được thả, mà đích thân anh em Thuật còn mời cả Điền và ông Tinh vào phòng Lận
uống nước, xin lỗi hai người. Vì mới chỉ nghe một tai mấy ông ngồi trên xe
huyện, chứ chưa kịp hỏi dân làng xem sự thể thế nào, đã vội bắt người giải về
giam trên trụ sở xã là chưa đúng (chưa đúng, chứ cũng không nói là sai). Nhưng
sao nhà lại yên ắng thế nhỉ. Tịnh không một tiếng động. Trâu thì nhốt chung
ngoài chuồng tập thể, một dẫy dài đến chục sân ở phía ngoài rìa làng. Còn lợn
gà có chuồng quây kín một góc vồng, khuất ra đầu hồi nhà, người mới vào không
để ý cũng không thấy. Chó má không có. Giá có con chó trong nhà cũng có tiếng sủa,
nhiều khi lại còn thấy ấm cúng xóm làng. Đằng này tuyệt nhiên không. Đã có lệnh
cấm nuôi chó. Cả làng, cả xã không nhà nào còn nuôi chó nữa. Kẻ trộm lại mừng.
Không cứ đêm, cả ban ngày, hễ tăm tia nhà nào có cái gì có thể khua khoắng được
là lừa lúc đi vắng, nghiễm nhiên vào tận nhà lấy đi, có giời biết. Thế mà nhà
đi đâu cổng rả lại không đóng. Cửa cũng chỉ khép hờ. Bà với cô Viên chắc là ra
đồng. Nhưng còn ông cụ chỉ ở nhà đan lát, có đồng áng gì đâu mà cũng không thấy
có nhà thế này. Hay ông cụ yếu người nằm trong nhà. Có khi thế. Cải dựng xe đạp
cạnh bể nước, gần lối vào bếp. Rồi quay lên nhà trên. Vừa đi vừa hỏi: “Ông hôm
nay yếu người à?”. Một lát mới thấy tiếng ông Mải từ phía sau nhà:
- Đang giở tay buộc lại cho con gà mái cái ổ ngoài chuồng
lợn. Anh ở huyện xuống, hay về làm việc với xã, vào chơi.
Cải vừa bước chân lên hiên nhà, quay lại nhìn ông Mải đang
vào sân, bảo:
- Lâu không xuống, hôm nay rỗi, con xuống thăm ông bà và các
em thôi.
Ông Mải nửa tin nửa ngờ, hỏi:
- Sao tôi nghe mấy anh ở huyện xuống họp ngoài xã nói, bí
thư mới làm việc không có ngày nghi, mà hôm nay anh lại có ngày rỗi cơ à.
Nói rồi, ông cụ đẩy rộng cánh cửa gian giữa, bước vào. Cải cũng bước vào theo. Một chiếc bàn kiểu bàn làm việc cơ quan, có ngăn kéo giữa, với bốn chiếc ghế tựa đều đã cũ, có chỗ sần sùi những vết dao tỳ lên bổ cau lâu ngày nhẵn lì như vân gỗ. Phía sau bộ bàn ghế, ngay chính giữa gian nhà là ban thờ gia tiên, với một dẫy bát nhang ba chiếc để ngang, chiếc giữa to cao dễ gấp hai, ba lần hai chiếc bát nhang hai bên. Sau mỗi bát nhang là một bộ mâm bồng, cũng tương xứng với bát nhang, giữa cao to, hai bên thấp nhỏ. Nhìn vào ban thờ gia tiên cũng biết gia chủ không phải là trưởng chi, trưởng ngành họ thì cũng là trưởng tộc, có nền nếp gia phong truyền đời.
Trong khi ông cụ xuống bếp xách siêu nước chè xanh ủ trong đống trấu từ sáng, Cải đứng giữa nhà chăm chăm nhìn lên ban thờ, mường tượng ra thứ bậc gia tộc và sợi dây liên kết giữa gia đình ông Mải với những người trong họ tộc, xóm làng. Những năm chống chiến tranh phá hoại, đơn vị pháo cao xạ của Cải về đón lõng máy bay Mỹ ở đây, Cải cũng nghe người ta nói, xã Tiên Trung tiếng là có bốn làng, nhưng chỉ có hai làng Phương Trà và Phương Trì là dân gốc thuần, mỗi làng đều có một dòng họ gần như chi phối mọi công to, việc lớn của cả làng. Phương Trà là họ Vũ Đức nhà ông Mải. Còn Phương Trì là họ Phạm Khắc nhà Thuật. Đều là họ có đông suất đinh nhất, nhì xã, còn những họ khác như họ Nguyễn, họ Bùi, họ Lương, họ Đoàn là họ nhỏ, trên dưới trăm suất đinh, có họ chỉ vài chục như họ Đoàn bên Phương La. Cải cũng biết, ông Mải không là trưởng tộc, trưởng chi họ Vũ, nhưng ông là người kỹ tính, nên ngay cả những năm việc lập ban thờ, bày bát nhang, bài vị trong nhà bị coi là mê tín dị đoan, cán bộ, đảng viên lại càng gương mẫu, không ai dám lập ban thờ, nhưng nhà ông vẫn đóng cái giá treo trên tường, đặt tấm gỗ hình chữ nhật chiều ba mươi, chiều sáu mươi phân lên đấy, với một cái vỏ ống bơ sữa bò làm bát nhang, như một sự tượng trưng ban thờ gia tiên. Còn bây giờ đã có điều kiện hơn, lại thêm việc thờ cúng, giỗ chạp cũng không đến nỗi khe khắt, xăm xoi như mươi năm trước, ông cụ lập ban thờ như thế cũng là phải.
Trong khi ông Mải xuống nhà dưới xách siêu nước chè xanh ủ trong đống râm trấu, Cải ngồi nhìn lên ban thờ nghĩ vẩn vơ. Khi ông cụ một tay xách siêu nước, một tay cầm cái điếu bát từ dưới bếp lên, Cải quay ra hỏi:
- Sao bảo xã họ thả chú Điền ra ngay chiều hôm ấy, hả ông?
Ông cụ để siêu nước xuống đất, ngẩng lên,