
nên tôi không cần những thứ này. Hắn bảo thế à, rồi
lần sau lại mang tới một bức tranh hoa điểu mà hắn bảo là của họa sĩ Ka-zan, Ka
dủng gì đó. Hắn vừa treo bức tranh lên hốc tường vừa bảo:
- Vẽ cũng được đấy chứ nhỉ?
Tôi trả lời qua quýt:
- Ừ, có lẽ được đấy.
Thế rồi hắn giải thích là có hai họa sĩ tên là Ka-zan(*).
Một Ka-zan là gì gì đó. Còn một Ka-zan nữa là gì gì đó... tôi chẳng thèm để ý
đến sự giảng giải vô tích sự của hắn. Hắn lại gạ:
(*) Ngụ ý nói về
Watanabe Kazan, họa sĩ vẽ chân dung nổi tiếng (1793-1841) và Yokoyama Kazan,
họa sĩ Kyoto (1784-1837).
- Thế nào? Nếu thầy mua thì tôi để cho thầy mười lăm yên
đấy. Mua đi!
Tôi bảo tôi không có tiền. Hắn vẫn dai dẳng:
- Tiền nong lúc nào đưa cũng được mà. Cứ mua đi.
- Có tiền tôi cũng không mua. Ông đi đi. - Tôi cáu tiết,
đuổi cổ hắn.
Một lần khác, hắn lại vác một cái nghiên mài mực to, trông
giống như hòn ngói úp.
- Đây là nghiên Đoan Khê, Trung Quốc. Nói là Đoan Khê thì
loại một phiến hay hai phiến đều là Đoan Khê.
Tôi nghe thấy hay hay nên hỏi Đoan Khê là cái gì? Hắn liền
giảng giải:
- Đoan Khê thì có các loại thượng tầng, trung tầng, hạ tầng.
Những cái gần đây toàn là thượng tầng cả. Nhưng cái này thì đúng là trung tầng
thật. Đây, cứ nhìn cái mắt của nó mà xem. Loại ba mắt này thì thật là hiếm. Độ
cạo mực của nó cũng rất tuyệt. Anh cứ thử dùng mà xem. Hắn chìa vào mặt tôi
chiếc nghiên to tướng. Tôi hỏi bao nhiêu, hắn nói:
- Người có cái nghiên này đã mang nó từ Trung Quốc về, họ
rất muốn bán nên để rẻ thôi, ba mươi yên đấy.
Tay này đúng là một thằng dở hơi. Ở trường dù có thế nọ thế
kia rồi thì cũng xong. Nhưng gặp phải một thằng cha buôn đồ cổ thế này thì khó
mà chịu được lâu.
Trong thời gian đó, dần dần tôi đã chán trường học. Một buổi
tối, tôi đi dạo phố Ô-ô-ma-chi, khi đến trước cửa nhà bưu điện thấy có biển đề “Hiệu
phở”(*), bên dưới có chữ thêm “Phở Tokyo”. Tôi rất mê phở. Hồi ở
Tokyo, mỗi lần đi ngang qua hiệu phở, ngửi thấy mùi nước dùng bay ra là tôi
không thể nào không chui vào giữa những tấm rèm Nô-rên(**) cho được.
Từ hôm đến đây, môn toán và những món đồ cổ đã làm cho tôi quên mất phở. Hôm
nay nhìn thấy biển này thì tôi không thể bỏ đi được. Hãy vào làm một bát đã.
Tôi nghĩ thế và bước lên thềm.
(*) Xô-ba – Loại mì
nước giống như phở, sợi mì làm từ bột Kiều Mạch. Mì Xô-ba hay udon đối với
người Nhật cũng giống như phở đối với người Việt Nam nên ở đây dịch là phở cho
phù hợp với bối cảnh Việt Nam.
(**) No-rên là những
mảnh vải giống như một loại Y môn được treo ở các cửa hiệu buôn bán, là biển
hiệu của cửa hàng.
Vào trong mói biết, hiệu phở này không oai như biển đề ngoài
cửa. Nếu quả muốn làm ra vẻ là có liên quan đến Tokyo đây, thì phải sạch sẽ hơn
một chút. Nhưng chủ hiệu này, hoặc là chưa hề biết Tokyo, hoặc là không có
nhiều tiền nên cửa hàng rất lèm nhèm, bẩn thỉu. Chiếu trải sàn thì bạc phếch, lại
còn lạo xạo những cát. Tường thì đen nhèm những vệt bụi than. Trần nhà thì muội
đèn bám đen kịt, thấp lè tè như đè ngay lên đầu khách. Riêng có cái bảng thực
đơn viết “Xô-ba” và giá thì được viết nắn nót và quả là mới thật. Chắc là mua
lại một cái cửa hiệu cũ rích rồi mới sửa sang được vài ba hôm chăng? Trên bảng
thực đơn, món ghi đầu tiên là ten-pu-ra xô-ba(*).
(*) Phở tenpura – loại
mì nước có cái là tenpura. Tenpura là các loại tôm, cá, rau, quả… tẩm bột rán.
- Cho một bát ten-pu-ra!
Tôi dõng dạc gọi. Lập tức có ba người, từ nãy đến giờ vẫn
đang xì xụp ăn cái gì đó ở trong một góc, đồng loạt quay ra nhìn tôi. Vì phòng
tối nên tôi không biết. Khi giáp mặt mới hay đó toàn là bọn học sinh trong
trường. Mấy đứa chào tôi nên tôi cũng chào lại. Đã lâu mới được ăn phở, tối hôm
đó thấy ngon, tôi đánh liền bốn bát phở ten-pu-ra.
Sáng hôm sau tôi thản nhiên bước vào lớp. Trên bảng, một
dòng chữ viết to gần kín cả bảng “Thầy TEN-PU-RA”. Vừa thấy mặt tôi, cả lớp
cười ồ lên. Tôi hỏi:
- Sao? Ăn ten-pu-ra thì buồn cười đến thế cơ à?
Một thằng nói:
- Nhưng mà ăn những bốn bát thì nhiều quá chứ lị.
- Bốn bát hay năm bát thì tiền của tôi tôi ăn, mặc tôi, có
liên quan gì đến các anh?
Tôi nói và bắt đầu dạy ngay, giảng liền một mạch cho đến hết
tiết và đi ngay về phòng giáo viên.
Hết mười phút giải lao, tôi sang lớp khác. Ở đây, trên bảng
lại viết:
“Một là: Ten-pu-ra thì bốn bát. Nhưng cấm cười.”
Lúc trước tôi không thấy bực lắm nhưng đến đây thì tôi rất
tức. Đùa gì thì cũng phải có chừng có mực thôi chứ. Hóa mù ra mưa, thật là quá
trớn. Quá đáng thế này, ai mà chịu nổi. Có lẽ cái bọn nhà quê này chưa gặp phải
sự phản ứng nào bao giờ cho nên chúng nghĩ muốn đùa bao nhiêu cũng được. Sống
trong cái thị trấn chật hẹp này, chỉ đi bộ một tiếng đồng hồ là chẳng còn chỗ
nào đáng đi nữa, lại không có một trò vui văn nghệ, giải trí gì, nên đối với
chúng, một sự kiện Ten-pu-ra chúng coi ghê gớm hơn cả chiến tranh Nhật Nga.
Thật là thảm hại! Từ nhỏ chúng đã được giáo dục như thế, cho nên chúng trở
thành những tiểu nhân cằn cỗi như cây phong trong chậu cảnh. Nếu ngây thơ thì
cư