
lên tán thưởng… Du dương quá, thư thái quá, đắc đạo rồi, thành tiên rồi… Tiếo đó, để cho đê vỡ, cho thủy triều lui, sóng níu sóng, cá lớn dắt cá bé, cá bé dồn tôm tép, đu hạ thấp rồi vút lên cao, dây đu thẳng căng,
người tui song song với mặt đất, mắt tui nhìn mảnh đất mầu vàng tươi và
những mầm non xanh biết, miệng tui ngậm bông hoa hạnh, mùi thơm thoang
thoảng vương trong mũi.
Tui đùa giỡn trên cây đu. Dưới đất là đám choai choai, đám lưu manh vắt mũi chưa sạch, bọn độc thân chưa lập gia
đình, tất cả đều hoá rồ. Tui bay lên, chúng “ồ”, bay bay xuống, chúng
“á”; “ồ” bay đi, “à” bay lại, mưa phùn đủ làm ẩm áo, ngọt ngào, mằn mặn, gió thổi phồng áo sống, mưa thấm ướt trước ngực, trong lòng cảm thấy đã thỏa. Tuy trong nhà đang có chuyện, nhưng con gái đi lấy chồng như nước đã đổ đi, vậy cha tự lo liệu công việc của cha, từ nay con phải sống
những ngày cho con! Con, trong nhà thì có người chồng thật thà trung hậu che chắn nắng mưa; ngoài thì kết bạn với người vừa có quyền vừa có thế, vừa đa tình vừa đa cảm; thích rượu thì uống rượu, thích thịt thì ăn
thịt; dám khóc dám cười dám chơi bời dám quậy phá, chẳng ai dám làm gì
tui. Đó là phúc, cái phúc mà mẹ tui cơ cực cả đời người ăn chay niệm
phật mà có, cái phúc mà số tui được hưởng. Cảm ơn trời, cảm ơn Hoàng
thượng và Thái hậu, cảm ơn cha nuôi Tiền đại nhân, cảm ơn Tiểu Giáp dở
dở ương ương… Cảm ơn cây gậy của Quan lớn Tiến chuyên dùng cho tui… Đó
là bảo bối không dễ mà có trong trời đất, là thuốc của tui. Tui cảm ơn
bà mệnh phụ phía sau công đường không lộ mặt, bà không thể sinh nở,
khuyên chồng lấy nàng hầu nhưng quan lớn Tiền không nghe.
Tục ngữ có câu: Nước đầy thì tràn, trăng tròn rồi khuyết, người vui chuyện
gở, cho vui tranh phân. Trong lúc tui khoe tài ở đám đu, thì cha đẻ Tôn
Bính cầm đầu nhân dân vùng Đông Bắc vác thuổng cuốc đinh ba, cầm đòn
gánh chàng nạng, bao vây lán trại của bọn Đức đang làm đường sắt, đập
chết hai tên bắt sống ba tên. Họ lột hết quần áo bọn bị trói vào cây
hòe, đổ nước tiểu lên đầu chúng. Họ nhổ tất cả các cọc mốc đem đốt, họ
móc đường ray quẳng xuống sông, họ gở tà vẹt đem về làm chuồng lợn. Họ
còn thiêu trụi các lán trại.
Tui cho đu lên hết độ cao, tầm nhìn
vượt ra ngoài tường thành, nhìn thấy mài nhà lô xô như bát úp. Tui nhìn
thấy con đường lát đá xanh trước cổng huyện, nhìn thấy nơi ở của cha
nuôi, những dãy nhà cao to trùng điệp. Tui trông thấy chiếc kiệu lớn bốn người khiêng của cha nuôi đã ra khỏi nghi môn, tên lính lệ mũ đỏ áo
trắng gõ thanh la đi trước dẹp đường, theo sau là hai hàng nha dịch,
điều mũ đỏ áo trắng, giương cao cờ biển, sau đó mới tới cỗ kiệu. Hai hộ
vệ dắt đao bên mình, tay vịn đòn khênh tiến lên theo nhịp chuyển động
của kiệu. Theo sao kiệu là thư biện của sáu phòng. Sau ba hôi thanh la,
cùng với tiếng hô oai nghiêm của các nha dịch, bọn phu kệu cất bước chạy gằn, thoăn thoắt như gắn lò xo ở gối. Chiếc kiệu rập rình, nhấp nhô như con thuyền lướt trên sóng nước.
Tầm nhìn của tui vượt qua huyện thành về phía đông bắc, con đường sắt của Đức chạy từ Thanh Đảo, đã
biến thành con rết không lồ bị đập bể sọ, đang quằn quại. Một đám đông
đen ngòm dày đặc trên cách đồng chớm xuân mầu xanh nhạt, phất cờ, những
lá cờ mầu sắc pha tạp, ùn ùn kéo về phía đường sắt. Lúc này tui chưa
biết đó là chatui đang cầm đầu đám người chống đối, nếu biết, tui không
còn bụng dạ nào tiếp tục cuộc chơi. Tui trông thấy phía đường sắt từng
cột khói bốc lên như những cây to biết cử động, rồi những tiếng nổ nặng
nề rất nhanh dội tới.
Đội nghi trượng của cha nuôi ngày càng tới
gần, đã tiếp cận cửa Nam. Tiếng thanh la còn rõ hơn, tiếng hô càng trầm
hùng hơn, những lá cờ ủ rũ dưới mưa, y hệt những tấm da chó rướm máu.
Tui trông thấy mồ hôi lấm tấm trên mặt, nghe tiếng thở nặng nhọc của bọn phu khiêng kiệu. Người đi đường đều dừng lại cúi đầu, không một ai dám
nói to hoặc một cử chỉ khác thường. Những con chó dữ nổi tiếng của nhà
Đỗ Giải Nguyên cũng im thin thít, có thể thấy cái uy của cha nuôi, ngay
súc vật cũng không dám nhờn. Tui trong lòng rạo rực, trong tim như có
cái bếp lò, trên bếp hâm bình rượu. Cha nuôi thân yêu của tui, tui nhớ
Người cháy ruột cháy gan! Hãy hoà Người vào trong bình rượu! Tui dùng
hết sức đu lên thật cao, để qua rèm cha nuôi trông thấy tấm thân yêu
kiều của tui.
Từ trên cây đu, tui trông thấy đoàn người phía xa
dày đặc như một đám mây đen cuồn cuộn, không thể phân biệt đàn ông đàn
bà, người già người trẻ, nhìn không ra ai là Cột ai là Kèo, nhưng mấy
ngọn cờ đại của họ thì rực rỡ khiến tui hoa mắt! Họ í ới gọi nhau, kỳ
thực tui hoàn toàn không nghe rõ tiếng gọi, mà chỉ phỏng đoán. Cha đẻ
tui xuất thân két hát Miêu Xoang, tổ sư đời thứ hai của làn điệu này.
Miêu Xoang vốn là một làn điệu dân gian, cha đẻ tui đã nâng tầm nó lên,
trở thành một loại hình kịch nghệ nỗi tiếng cả vùng rộng lớn, phía bắc
đến phủ Lai Châu, phía nam đến Phủ Đăng Châu, tổng cộng mười tám huyện.
Tôn Bính hát Miêu Xoang, phụ nữ lệ chảy tràn. Oâng vốn là người thích hò la. Nay dẫn đầu đá