
gì trong túi này
đâu!" Thế là cái túi da beo mà tôi đã nhét nửa trong nửa ngoài vào túi áo
vét-tông, tự nãy giờ còn nằm yên đã bị bàn tay tôi lôi phăng ra tức khắc.
A! Cái dao găm!
Tôi
chợt kêu khe khẽ và từ từ rút lưỡi dao ra khỏi chiếc da bao láng bóng vì đẫm mồ
hôi người lâu năm ánh thép xanh xanh của lưỡi dao sắc như nước lóa lên mỗi lần
trời chớp. Cán dao bằng sừng, nạm khâu đồng dỏ có chạm hoa văn rất đẹp. Cán
bằng sừng gì như sừng nai. "Còn những gì khác nữa trong cái túi bí ẩn này?
đằng nào mình cũng đã mở ra rồi. Xem một chút thì có làm sao!"
Sự
tò mò náo nức càng thôi thúc tôi hăm hở lật ra. Đây là một gói lưỡi câu đủ cỡ,
mươi hai chiếc cả thảy, gói trong một mảnh giấy đầu cỡ bàn tay. Một cục đá và
một miếng thép dèn dẹt to và dài, hơn mặt bao diêm. Đây nữa là một gói thuốc.
Thuốc gì mà dẻo quánh, xin xỉn vàng, mùi hăng hắc, đưa lên mũi ngửi thấy buồn
nôn. Tôi bỏ lại vào túi da beo tất cả các thứ linh tinh ấy, chỉ trừ cái dao
găm, rồi thắt miệng túi thật chặt bằng sợi dây gân khô quắt và trơn tuột.
Cầm
chặt cán dao trong tay, tôi bỗng thấy người mình như cao lớn hắn lên; dường như
sức khỏe tăng lên vạn bội, tôi nghe mạch máu chạy râm ran trong những đầu ngón
tay. Trời chớp nhoáng nhoáng. Tôi thong thả đứng dậy rồi bất thần quảy phắt
lại, trừng trừng nhìn vào ngôi miếu. Pho tượng kinh khủng vẫn lặng lẽ đứng trên
bệ thờ, lè chiếc lưỡi dài màu máu xuống rốn, bốn chiếc răng nanh trắng lòa nhe
ra như cười.
Một
lúc sau, gió dụi dần, rồi tắt hẳn. Trên ngọn đa tối sầm mà cơn gió cuồng vừa
gào rú ghê người ban nãy, mấy con chim chào mào xôn xao chuyền cành nhảy nhót, hót
líu lo. Nắng vàng màu da chanh phủ lên cây cỏ một thứ ánh sáng dịu mắt, trong
suốt và lung linh dương như có thể sờ được.
Tôi
trở ra bờ kênh, đi dọc dài theo bến một lúc, hy vọng sẽ gặp lại chiếc thuyền
con của ông cụ giá bán rắn. Nhưng ngóng hoài mà vẫn không thấy tăm dạng chiếc
thuyền và cha con ông già đâu cả. Nhìn về nơi tít tắp, chỉ thấy ánh phản quang
của ráng chiều sắp tắt từ mặt nước dòng kênh hắt lên những lùm bụi ven bờ. Sực
nhớ rằng dì Tư Béo sắp về, tôi bèn gấp buộc trở lại quán dể lo bữa cơm chiều.
Từ ngoài góc sân sau, tôi đã thấy trong hơi khói
bếp bay tỏa ra xa mùi cháy của cá kho khô ướp nước màu dừa (nước hàng làm bằng
nước dừa cô đặc), rưới mỡ béo ngậy và có rắc hạt tiêu thơm phức.
-
Ông con ơi? Cơm đã dọn sẵn rồi đấy? - dì Tư Béo mát mẻ nói vọng ra.
Đáng
lẽ phải đi nhanh vào và sẵn sàng chịu đựng những câu quát mắng của bà chủ đôi
khi cũng bất thần nổi nóng với mình, thì tôi lại bước từng bước một cách hết sức
chậm chạp.
Mùi
cá kho khô thơm lừng mà ban nãy nghe thấy đã thèm rõ rãi khiến tôi cảm thấy
bụng đói cồn cào, bây giờ bỗng bay đâu mất. Tôi không sợ những lời quát mắng.
Thậm
chí những câu chửi rủa tục tằn cũng không làm tôi bực túc hay run sợ nữa. Bởi
vì, đối với một thằng bé lưu lạc một thân một mình như tôi, thì bất cứ người
nào cũng có thể hoạnh họe, bắt nạt, trút giận dữ lên đầu tôi một cách hết sức
vô lý được. Điều đó, tôi chẳng coi ra mùi gì. Thực tình thì. ban đầu tôi cũng
khổ sở đau đớn vì phải hứng chịu những câu mắng mỏ thô lỗ cục cằn kiểu bọn đầu
đường xó chợ mà từ tấm bé, vốn sống được nuông chiều trong một gia đình nề nếp,
tai tôi chưa hề quen nghe. Tôi đã nghĩ rằng ngày nào cũng ngửa tai ra mà hứng
lấy những lời xấu xa như vậy, thì mình đến vỡ óc ra mà chết thôi. Tôi tự nhủ:
"Dại gì mình làm tờ giấy thấm để có giọt mực nào rơi xuống cũng hút lấy? Hãy
ném trả lại cho họ". Thế là tôi đã nhanh chóng tìm ra phương pháp chống
trả tiêu cực một cách có hiệu quả.
Một
là tôi cứ lờ đi, sự phản ứng ngấm ngầm bên trong đã tạo thành một thứ vỏ thép
mà những lời cay độc đến mấy bắn vào cũng sẽ lập tức bật ra quay về trúng lại
họ.
Chẳng
vậy mà những người đã há vành cung miệng, dùng lưỡi bắn tôi đã lồng lộn lên
trước thái độ thản nhiên như không của tôi đó sao? Nhưng trái lại, tôi rất sợ -
vừa sợ vừa căm ghét - những câu mát mẻ, nói bóng nói gió xa xôi. Thái độ ấy
thường gây cho tôi nhiều đau đớn, và những vết thương trong tâm hồn thơ bé của tôi
cứ tấy lên mỗi lúc nhớ đến giọng nói mát mẻ, ngọt như mía lùi nhưng lại có xát
ớt mà một người lớn đã ném cho một đứa trẻ con...
Thấy
tôi lặng lẽ bước vào, dì Tư Béo càng bực tức:
-
Bữa nay mày câm rồi à? Thụt lưỡi rồi hay sao?
Tôi
chẳng nói chẳng rằng, cứ lẳng lặng đi lau đũa lau bát, dọn mâm ra bàn. Bà ta
nhấc nồi cơm, múc cá kho, xới cơm ra bát xong đâu đấy, bèn hứ một tiếng:
- Không ngồi vào mà ăn, còn đợi mời đợi thỉnh nữa
sao?
Chưa
có lệnh bà chủ, lẽ nào tôi dám tùy tiện, ngồi vào mâm trước? Mà đợi bà phải bảo
thì tôi lại mắc vào cái tội chờ mời chờ thỉnh? Đằng nào, tôi cũng có lỗi cả? Mà
nào tôi có tội gì cho cam. Bà ta bảo tôi rằng bà ta đi đòi nợ đến tận đỏ đèn
mới về. Quái qủy gì đã bắt bà về sớm từ chiều, tôi làm sao rõ được?
Bà ngó nghiêng vào mặt tôi, có lẽ dò xem thái độ
hơn là chờ câu trả lời.
-
Cháu không đói! - tôi đáp bằng cái giọng không phải của chính mình.
-
Mặc