
i nóng rừng rực từ giồng cát bốc lên làm hoa cả mắt. Nắng
đốt vàng ngọn cỏ, thiêu vàng lá tre. Lâu lâu có một luồng gió từ xa chạy tới,
cuốn từng vầng cát lớn bay mù mịt, phủ mất bóng những đàn bò uể oải đứng gặm cỏ
khô dưới những tầng cây thốt nốt, khiến cho tôi có cảm giác những con bò mộng
to tướng ấy đã bị cuốn theo vầng cát, bay lên biến mất giữa trời. Bọn trẻ chăn
bò trần truồng tắm dưới mé sông, lặn ngụp, té nước vào nhau, reo hò inh ỏi. Đứa
nào đứa nấy da cứ đen bóng như bôi nhọ mỡ. Một thằng bé tóc xoăn như bụt ốc,
cầm roi bò đứng trên bờ, không tắm nhưng cũng cứ trần như nhộng. Giữa cái bụng
tròn như quả bóng bơm căng của nó, một sợi dây nịt mới toanh thắt ngang. Tự
nhiên, tôi cũng cảm thấy bụng mình như đau đau tức tức. Thấy tôi liếc mắt ngó,
nó nhe răng ra cười. Hàm răng trắng nõn của nó đều tăm tắp như hạt ngô rất đẹp.
Trên con đường mòn như rắn lượn dắt vào xóm, có chiếc xe trâu bánh gỗ kéo lúa
đi cót... két... cót... két... Một người đàn ông cởi trần, đầu không đội mũ,
vận chiếc xà-rông đỏ đi trước xe lúa, tay cầm sợi thừng dắt theo con trâu. Hai
người đàn bà còn trẻ, dong dỏng cao, đều mặc một kiểu áo bít bùng may hở cổ
xuống gần giữa ngực, mỗi người đội trên đầu một vò nước bằng đất sét nung, chậm
rãi bước sau xe. Hai cái bóng phụ nữ cổ thon thon hình cổ lọ, dường như lúc nào
cổ họ cũng rướn lên để giữ thăng bằng cho hai chiếc vò đất, nổi bật lên đẹp như
những tượng phù điêu bằng đá khắc hình các vũ nữ Khơ-me mà tôi đã từng thấy
trong ảnh ở một quyển du ký nói về đất Cao Miên. Cảnh vậy chung quanh đều chìm
trong một màu vàng buồn bã, rừng rực hơi nắng; chỉ có ngọn những cây thốt nốt
cao lêu nghêu là còn giữ được sắc lá màu xanh. Thuyền chúng tôi đi qua một dãy
nhà vách phên trống hoác. Một con chim chài chài sắc lông xanh có bộ ức đỏ
tuyệt đẹp đậu trên cái giàn cúng ma cất dựa bờ sông, nghe động tiếng mái chèo,
giật mình bay vụt lên, mất hút giữa nền trời xanh. Chúng tôi đậu thuyền lại bên
một doi cát, sửa soạn bữa cơm chiều.
Tía nuôi tôi thay áo, bịt khăn mới, dắt tôi
lên chùa xin thuốc cho thằng Cò. Chúng tôi đi được một quăng thì con Luốc phóng
lên bờ chạy theo. Đuổi mãi nó cũng không quay lại, tôi đành phải cho nó đi theo
bên tôi. Tới ngôi nhà sàn đầu xóm nằm thấp thoáng trong một lũy tre, tía nuôi tôi
đứng ở cửa gọi vọng vào hỏi thăm lối lên chùa. Người chủ nhà mặc may-ô trắng,
vận xà-rông tơ kẻ ca-rô đen, đứng trên sàn chỉ trỏ về phía những cây xoài cổ
thụ, nói lăng líu một hồi. Hai người nói với nhau bằng tiếng Miên, tôi không
biết họ nói gì, phần thì bị những con chó từ dưới sàn nhà chạy túa ra sủa vang,
nên cứ tưởng như hai người đang cãi nhau chuyện gì. Chúng tôi đi tới đâu, chó
sủa rộ lên tới đó. Không biết bao nhiêu là chó, con nào con nấy dữ như quỷ sứ,
cứ chồm chồm ra, cậy gần nhà chực xông vào cắn con Luốc.
- Sao họ nuôi chó làm gì mà nuôi lắm vậy, hở
tía?
Tôi phát bực, hỏi tía
nuôi tôi.
- Ờ, nuôi mà như không nuôi... Người Miên
theo đạo Phật, không ai ăn thịt chó. Cũng không bán. Ai xin thì họ cho không
vậy thôi. Chó đẻ ra bao nhiêu cũng nuôi mặc cho nó lớn, sống thế nào cũng mặc.
Con Luốc đi bên tôi, đuôi nó không cụp xuống
tỏ vẻ sợ hãi, lại còn cứ ve vẩy, tuồng như không màng đến bọn nhãi nhép tong
teo kia. Chỉ cần tôi ra lệnh một tiếng, là nó xông ra cho bọn chó kia một bài
học nên thân ngay. Ngôi chùa sáu mái lợp ngói đỏ uốn cong vút, xây trên nền đá
như kiểu kiến trúc chùa chiền ấn Độ, sừng sững đứng trên một ngọn đồi cát,
chung quanh mọc toàn những cây xoài cổ thụ to có đến ba bốn người ôm. Chúng tôi
lần theo những bậc thang xây bằng đá tổ ong, đi lên chùa. Hai bên bậc thang, ở
mỗi quãng mặt bằng phải đi bình thường một lúc trước khi bước lên một tầng
thang cao hơn, có bệ xây hình rắn bảy đầu xòe ra như cái quạt khổng lồ. Ngọn
đồi cũng thấp thôi, nhưng cách kiến trúc đường lên bậc thang khiến tôi khi bước
đi cứ có cảm giác là chùa ở trên chỗ cao lắm, vì luôn luôn phải ngửa cổ lên mới
nhìn thấu được bên trên. ông Lục cụ chưa già lắm, khoảng ngoài năm mươi tuổi
thôi. ông không mặc quần áo kiểu sư ta mà choàng quanh người bằng cả một súc
lụa vàng, lẹp xẹp đôi hài cỏ, tươi cười bước ra tiếp tía nuôi tôi. Tía nuôi tôi
chắp hai tay vái Lục rất kính cẩn. Thấy tía nuôi tôi làm gì, tôi cũng bắt chước
làm theo như vậy. Hai người lại nói chuyện với nhau bằng tiếng Miên, làm tôi
đứng ngớ ra nhìn. Tía nuôi tôi theo Lục vào chùa. Tôi vừa toan bước theo thì
tía nuôi tôi quay lại, bảo:
- Không được dắt chó vào chùa. Con muốn vào
thì phải bắt nó nằm ngoài sân kia!
Tôi không thể nào bảo được con Luốc cho nó
chịu nằm yên. Hễ tôi quay lưng đi thì nó lóc cóc chạy theo, nên tôi đành phải
đứng ngoài cửa ngóng vào. Tía nuôi tôi đập đập chân giũ bụi trên góc phản, rồi
lên ngồi xếp bằng tròn trên chiếc chiếu hoa rất đẹp, đối diện với Lục. Tôi thấy
ông Lục ân cần rót nước mời tía nuôi tôi, rồi hai người lại tiếp tục nói lăng
líu gì với nhau. Tôi đưa mắt nhìn sâu vào trong, thấy trên bàn thờ là những ông
bụt cũng gần giống như