
g đống củi gỗ đước cao như núi chất ngoài sân
lò, mọc đầy nấm dại.
- Hừ! Thằng Tây mới tới Năm Căn hơn hai tháng
thôi. Vậy mà gần chục mạng người đã hy sinh! Hai anh du kích diệt được khá
nhiều Tây và lính ngụy vừa bị nó bắt và bắn chết, buộc xác phơi ở chỗ gốc cây
mắm gần bờ sông chiều hôm qua... Bà con trong chợ đến cướp xác hai anh em về
chôn, bị nó bắt đánh một trận gần chết, bữa nay còn giam trong đồn!
Ông già thợ đốn củi nói đến đây ngập ngừng
cúi xuống cời lại đống hun. Khói cay nồng, đặc sệt từ đống hun ngùn ngụt bốc
lên, tỏa trắng khắp gian lều. Bầu không khí ẩm ướt từ trong ngôi lều của chúng
tôi như quánh lại, ngột ngạt đến tức thở. ông lại ngẩng nhìn tía nuôi tôi, nói
tiếp.
- Như vậy là hết đất rồi. Chỗ nào cũng có
thằng giặc. Chí như cái Hòn Khoai ngoài biển kia mà nó còn mò tới đóng đồn! Vậy
thì mình cũng phải làm thế nào chứ, anh Hai?
Tía nuôi tôi cứ gật gù im lặng ngồi nghe. Khi
ông già đốn củi ngừng nói, với tay rứt một dúm thuốc trong cái ống bơ nhồi vào
tẩu, tía nuôi tôi bèn cầm chai rót thêm rượu vào bát:
- Uống đi, ông bạn!
- Trời ơi, bộ anh Hai muốn tôi "mượn tửu
binh giải phá thành sầu à?"
Ông già nhếch nụ cười móm mém, đưa tay đỡ bát
rượu.
- Chẳng qua đó là cái thói tật không bỏ được
của anh em bọn mình đấy thôi! Chỉ có chúng ta mới giải phá được thành sầu này,
chứ cái thứ tửu binh... thì nó chỉ quật cho mình say mèm, nằm đó đợi giặc đến
trói cổ dắt về đồn thôi.
Đôi bạn già ngồi xếp bằng trên một tấm đăng
trải giữa nhà cùng cười lên mấy tiếng và chuyển bát rượu cho nhau mỗi người tợp
một ngụm. Tiếng cười khành khạch gượng gạo của ông già đốn củi có lẽ cũng làm
lây đôi chút buồn sang cho tía nuôi tôi. Cả hai người cùng im lặng, đưa mắt ngó
ra ngoài. ánh nắng trời chiều xuyên qua những tầng lá đước rậm rạp, chiếu xuống
mặt đất lầy ngoài bờ bên kia con rạch nhỏ một màu xanh tai tái. Gió từ biển
khơi thổi tới, hun hút lùa qua những vòm lá đước tối om, thốc mạnh vào lều làm
cho mái lá rung lên và ngọn lửa cháy lép bép trong đống củi hun bỗng phụt sáng
đỏ ngòm... Cứ vài hôm lại có một ông khách tạt vào lều uống vài chén rượu với
tía nuôi tôi. Có người tôi quen, có người tôi chỉ biết mặt chứ không rõ tên.
Đôi khi cũng có một vài người lạ mà tôi đoán chừng là bị giặc càn chạy tới đây.
Những lần đầu, tôi còn thường la cà bên tía
nuôi tôi, lắng nghe câu chuyện giữa những ông già trao đổi với nhau qua chén
rượu suông, nhưng mãi rồi tôi cũng không chú ý nữa. Quanh đi quẩn lại, vẫn là
chuyện bọn giặc ruồng bố, càn quét. Họ rất căm thù bọn giặc ở đồn Năm Căn,
nhưng nghe cái giọng rượu lè nhè của họ, tôi biết rằng họ chỉ có thể mượn rượu
để nói ra cho hả một lúc vậy thôi. Thậm chí có một ông nom còn trẻ tráng, gọi
tâng tía nuôi tôi là bác, mà cũng thở ra cái giọng bạc nhược của những lão già
cổ hủ, một hai tin rằng sự xuất hiện con kỳ đà kinh khủng nơi đồng mả mấy tháng
trước là điềm trời giáng tai họa cho dân xứ này. Sau những bữa rượu như vậy,
tiễn khách đi rồi, tía nuôi tôi thường đứng rất lâu một mình ngoài bờ cỏ. ông
lắng nghe tiếng ca-nô giặc chạy tận ngoài sông Cửa Lớn, hay nghĩ gì về những
câu chuyện của các ông bạn già thì không rõ, nhưng tôi thường thấy ông khoát
khoát tay làm những cử chỉ bực tức khó chịu. Mỗi ngày tía nuôi tôi lại một thêm
lầm lì, ít nói.
Có khi ông ngồi lặng lẽ hàng giờ bên đống củi
hun, như một gốc cây khô giữa rừng, đến nỗi tôi và thằng Cò đứa nào cũng len
lét không dám đi mạnh chân. ông thường bỏ nhà đi luôn. Chẳng rõ đi đâu. Nhiều
lúc đi hai ba hôm mới về. Má nuôi tôi rất lo. Cơ sự này thì ông lão đến quẫn
chí mất. Nhưng mỗi lần tía nuôi tôi trở về, tôi lại thấy ông tỉnh táo và vui vẻ
hơn trước. Có khi ông còn cầm về cho tôi và thằng Cò một vài thứ quả lạ, màu đỏ
óng, có những chấm li ti xam xám rất đẹp mà ông bảo là chỉ để cầm chơi chứ
không ăn được. Chà, có thứ quả rừng nào mọc ngoài bờ sông và trong những khu
rừng chung quanh đây lại có thể lọt khỏi con mắt của tôi và thằng Cò? Thế mà cả
hai đứa chúng tôi đều chưa hề trông thấy những thứ quả tía nuôi tôi cầm về.
- Tía lấy quả này ở đâu vậy, tía?
- Ngoài xóm kia thôi...
- Xóm nào vậy tía?
- Xóm ngoài chứ xóm nào. Con sao cứ lục vấn
mãi...
Tôi lặng im không hỏi nữa. Thằng Cò tưởng ông
mệt mà tôi cứ đeo hỏi mãi làm ông bực, nó bèn lôi tôi đi bắt mồi câu cá. Ở nhà
được vài hôm, tía nuôi tôi lại sắm sửa đi. Ông soạn mấy bao diêm, một cái xoong
nhôm và hơn chục lít gạo bỏ trong bao cà-roòng. Điều đó càng khêu gợi thêm sự
tò mò trong tôi bấy nay một cách mãnh liệt, khiến tôi không nén được ý định:
phải dò xem tía nuôi tôi đi đâu và làm gì? Cũng như mấy bận vừa rồi, tía nuôi
tôi lấy xích buộc con Luốc vào chân cột cẩn thận, rồi sai bảo tôi và thằng Cò
đi làm một công việc gì đó, hoặc chờ đúng lúc chúng tôi vắng mặt, ông mới đi.
Tía nuôi tôi đã sắm sửa xong rồi. Chẳng đợi ông bảo, tôi cầm con dao bước ra
cửa, còn quay lại nói vọng vào bếp:
- Má ơi, con ra ngoài bờ sông chẻ mớ lạt dừa
nghe má!
Tía nuôi tôi "ừ" đáp thay cho má
nuôi tôi, ông còn