
tiên tôi
nhận ra ngay là thầy giáo Bảy, kế đó là ông già đốn củi. Còn người cầm chiếc
đèn pin, mặc bộ quần áo bà ba rách nhiều chỗ, mặt xương xương, râu mọc tua tủa
xung quanh cằm vì lâu ngày không cạo, đang ngồi trên bộ vạt lót bằng cọng sống
lá kia thì tôi trông quen lắm. Tôi đã gặp ông ấy ở đâu một lần rồi. Chắc chắn
là tôi không nhầm, từ khi nghe giọng nói nhanh nhảu của ông ban nãy. Trong
thoáng chớp, có rất nhiều gương mặt quen quen hiện nhanh ra trong đầu tôi. Vừa
ở ngã ba sông này có một gương mặt người dân quân tự vệ hiện ra cười với tôi,
thì trong ngôi miếu tận một nơi xa kia, gương mặt những người thương binh lặng
lẽ cúi xuống nhìn tôi chợt hiện lên và biến đi. Một bộ mặt xương xương toét
miệng cười bỗng hiện ra giữa quán rượu dì Tư Béo... cái bóng người cao lêu
nghêu, mặc bộ quân phục màu rêu, thắt lưng da rộng bản, khẩu súng poọc hoọc đeo
trễ bên đùi... Đúng là ông ấy rồi! Tôi vụt kêu lên:
- Chú
Huỳnh Tấn!
Người
ấy buông chiếc đèn pin ra, nhổm lên, nhảy xuống khỏi bộ vạt, đứng sững nhìn vào
mắt tôi. Tất cả những người chung quanh đều trố mắt ngạc nhiên. Ông ta nghiêng
đầu, nheo mắt:
- Trời
ơi! Chú em này sao lại biết mà gọi đúng tên cúng cơm của mỗ vậy kìa?
- Đêm
đó, chú đi với anh Sáu tuyên truyền ghé quán dì Tư Béo, chú có gặp anh phân đội
trưởng... Cháu làm hầu bàn ở đó mà!
Cuộc
gặp gỡ bất ngờ giữa tôi và người chỉ huy du kích đã làm tiêu tan bầu không khí
im lặng trong ngôi lều khi tôi mới bước vào... Các anh du kích bỏ củi vào đống
hun quạt lên, bảo tôi ngồi xuống hong cho ấm. Tôi vừa ngồi xuống một khúc gỗ,
chưa kịp xòe bàn tay móp cóng ra hong trên lửa thì đã có anh bưng vào cho tôi
một tô cơm kèm hai khúc cá kho khô và một đôi đũa. Đúng là mùi cá kho cháy nồi
mà tôi đã bắt gặp lúc nãy đây! Tôi chẳng khách sáo gì cả, cũng chẳng kịp nói
hai tiếng "cám ơn" cho phải phép, đỡ ngay lấy tô cơm, và ngốn và ngấu
gần như không kịp nhai. Con Luốc cũng có phần một miếng cháy, ve vẩy đuôi ngồi
nhá tóp tép bên đống hun cạnh tôi. Qua làn khói củi hun bọ mắt tỏa trắng, tôi
biết có những đôi mắt cười nheo nheo trong ánh lửa của những người du kích ngồi
tựa lưng vào vách đang nhìn tôi. "Cà, gói giấy nhật trình của má gói đã
ướt sũng cả rồi... Lúc nãy mình dại quá. Sao không dám cầm vào đây mà hong cho
khô, cứ giấu nó trong cái túi áo ướt". Tôi và nốt miếng cơm trong tô, rồi
đứng dậy cầm tô đi ra rửa ngoài vũng nước. Lúc vào, tôi không quên cầm vào gói
quà của má nuôi gởi cho các anh du kích:
- Cái
này... là cái má tôi gởi cho các chú, các anh đấy!
Nói
xong, tôi mở năm đầu ngón tay xòe đưa gói giấy ướt sũng ra, trao cho chú Huỳnh
Tấn. Tía nuôi tôi đang đứng xem một anh du kích lau khẩu súng trường ở chỗ góc
lều, vội ngẩng lên:
- Hóa
ra má mày bảo mày vô đây à? - Rồi tía nuôi tôi dang cánh tay ra, nói như phân
bua.
- Lạ
quá! Tôi có hề nói với bả lần nào đâu? Sao mà hai mẹ con bả thính đến vậy!
Chú
Huỳnh Tấn không cần biết có lời phân trần của tía nuôi tôi. Chú cứ thận trọng
bóc từng mảnh giấy ướt nhàu ra, cầm nắm chỉ và ống kim giơ lên:
- Quà
của chúng ta đây rồi!
Tiếng
cười vui vẻ của nhiều người dậy lên. Chú Huỳnh Tấn quay sang bảo tía nuôi tôi:
- Bà
già tâm lý lắm! Biết anh em rách, gởi cho ngay cái thứ mình cần mới thích chứ!
Thầy
giáo Bảy ngồi cầm cái cuống quài dừa nước đã đập tơi dùng làm phất trần xua
muỗi quơ qua quơ lại, mỉm cười nói thong thả:
- Đồng
bào đều biết chúng ta ở đây mà anh em chúng ta có người nào hở môi chỉ chỗ cho
họ biết đâu! Như vậy thì... khu rừng này đâu có thể chắc chắn bảo đảm che giấu
được những cái lều này...
Chú Huỳnh Tấn nhướng mắt cười hì... hì...
- Che
mắt địch thôi! Chúng ta làm sao che giấu được với đồng bào!
- Anh
nói có lý! -Thầy giáo Bảy gật gù tiếp.
- Mọi
người đều biết hoặc có thể biết có du kích ở đây, nhưng bọn địch thì hoàn toàn
không hay biết... Như vậy thì... chỉ có rừng nhân dân mới bảo đảm che giấu được
mọi hoạt động của chúng ta thôi!
Nhiều
tiếng cười tán thưởng từ chỗ góc lều tối vọng ra:
- Đồng
chí Bảy nói nghe sâu sắc lắm!
Thầy
giáo Bảy sửa giọng nghiêm trang, nói:
- Không
phải là ý kiến của tôi đâu. Vừa rồi, được đồng chí Hoài dắt vào gặp anh Tư Thượng
Vũ, tôi đã nghe anh Tư bảo như thế đấy! Một anh nào đó đang đi qua đi lại ngoài
sân, hát se sẽ giọng trầm buồn: “Thần dân nghe chăng... sơn hà nguy biến! Hận
thù đằng đằng... biên thùy rung chuyển...". Tiếng hát nhỏ dần, tắt mất
trong bóng đêm.
Rồi một lúc sau, cái giọng trầm buồn ban nãy
bỗng bật lên sang sảng: "Trước nhục nước nên hòa hay nên chiến?". Ông
già đốn củi nói tướng lên, cắt ngang: "Chiến" chứ "hòa" là
hòa làm sao? Đất của mình nó tới nó đánh chiếm, mà còn vớ vẩn hỏi
"chiến" hay "hòa"! Còn người nào, đánh người ấy. Tới người
cuối cùng cũng đánh mà! Tôi cúi xuống nhìn vào ngọn lửa cháy rực trong đống
củi. Nhưng tôi biết rõ là ông già đốn củi đang rướn người lên đằng sau các anh
du kích, và ông đang vung tay, xúc động đến rung rung cả chòm râu. Giọng sôi
nổi đầy nhiệt tình vừa thốt ra của ông làm t