
lao đến đại điện. Tôi sải bước gấp gáp, Đạo Hằng phải chạy mới theo kịp tôi.
- Đạo Tiêu, sao đi nhanh thế? Sư đệ sốt sắng muốn gặp pháp sư hơn cả ta kia à?
Tôi mặc cậu ta lải nhải, tiếp tục sải bước. Làm sao cậu ta hiểu được tâm trạng của tôi lúc này?
Một bước vượt ba bậc thềm, tôi hối hả lao vào đại điện. Cảnh tượng
bận rộn, tấp nập trải ra trước mắt tôi: Hàng nghìn nhà sư ngồi chật kín
đại điện, cảm giác như không còn, dù chỉ một khoảng trống để đặt chân.
Một bóng dáng cao gầy, cầm sách trên tay, đang khom lưng đi lại phía
trước tượng Phật trên bục cao của đại điện. Bên cạnh ngài là mấy chục
nhà sư đang miệt mài ghi chép. Tôi kéo Đạo Hằng khoanh chân ngồi xuống
một góc nhỏ, ánh mắt không rời khỏi bóng hình ấy. Là cha đây sao? Người
cha mà hai mươi hai năm qua tôi chưa từng gặp mặt? Vì sao tôi có cảm
giác rất đỗi thân thuộc?
Cha đang dịch một đoạn kinh văn, tôi tập trung lắng nghe, đó là cuốn
kinh “Phật Tạng”. Trước khi đến đây, tôi đã đọc lại những kinh văn mà
cha chuyển dịch. Tôi được di truyền từ cha trí nhớ siêu phàm, cho nên dù không thông hiểu Phật pháp một cách sâu sắc, tôi vẫn có thể thuộc hết
những kinh văn này. Cũng nhờ vậy, trên đường tới đây, tôi không gặp bất
cứ khó khăn nào khi giả làm một hòa thượng.
Cha dịch xong mấy câu kệ, liền cười hiền hậu, nói với các đệ tử:
- Kinh văn đã dịch xong, các vị vất vả nhiều rồi!
Giọng cha thâm trầm, ấm áp, pha khẩu âm Tây vực. Cha đã năm mươi sáu
tuổi, tuy gương mặt đã già nua, nhưng ở cha vẫn toát lên phong thái đĩnh đạc, phi phàm, thách thức với tháng năm. Lúc cha mỉm cười, vẻ thông
tuệ, uyên bác và sự hoạt bát, tinh tường tỏa rạng.
Đạo Hằng đột nhiên kêu lên:
- Đó là pháp sư Kumarajiva ư? Đạo Tiêu, sao, sao, sao ngài giống sư đệ thế?
Tôi sững sờ, thảo nào tôi cứ có cảm giác rất thân thuộc, mũi cao, mắt sâu, đồng tử màu xám nhạt, cằm nhọn, thuôn dài, giống ở mọi nét, ngay
cả chiều cao cũng tương tự. Chỉ có điều, da tôi trắng hơn cha một chút.
Hồi trẻ, hẳn là cha giống hệt tôi bây giờ. Chả trách các nhà sư trong
chùa Thảo Đường nhìn tôi đầy ngạc nhiên như vậy.
- Rajiva, tiếp theo đây, chúng ta sẽ chuyển dịch kinh văn của các
ngài Dharmatrata (Đạt-ma-đa-la) và Buddhasena (Phật Đại Tiên) mà ta mang về chứ?
Phía bên này là rất đông các nhà sư nước ngoài, xét tướng mạo thì có
lẽ họ đến từ Ấn Độ và Trung Á. Họ đang tọa thiền trên những vị trí dành
cho khách quý. Tôi biết họ là những người thầy và người bạn của cha, đến Trường An trợ giúp cha dịch kinh Phật. Trong số họ có một nhà sư dáng
người nhỏ thó, gầy gò, kém cha chừng vài tuổi, rất hay đặt câu hỏi. Ông
ấy hỏi một lần bằng tiếng Phạn, sau đó nhắc lại bằng thứ tiếng Hán bập
bõm.
Cha cung kính cúi người trước nhà sư đó:
- Ngài Dharmatrata và ngài Buddhasena là các bậc thủy tổ của phái Hữu tong – Đại Thừa. Ta dự định sẽ chuyển dịch các cuốn luận của phái Không tông – Đại Thừa trước, sau đó mới chuyển dịch các thuyết của
phái Hữu tông. Vì vậy, ngày mai chúng ta sẽ bắt đầu dịch cuốn kinh
“Duy-ma-cật sở thuyết”.
Vị sư kia tỏ ra bất mãn, lạnh lùng cất giọng oang oang:
- Phái Hữu tông vốn là tông phái của các hành giả Du-già ở Thiên
Trúc, do Bồ Tát Di- lặc sáng lập, với học thuyết “nhãn minh” soi sáng
như sao Khuê trên trời. Trung Quán luận của phái Không tông mà sư huynh
đề xướng sao so sánh được với phái Hữu tông?
Tôi tức khí. Lão hòa thượng này ngang nhiên khiêu khích cha trước mặt bao nhiêu đệ tử của người thế này, thật quá đáng. Tôi biết lão là ai,
đó chính là Buddhabhadra, tên tiếng Hán là Giác Hiền, người luôn chống
lại mọi quan điểm về Phật pháp của cha. Ông ta cậy mình là đệ tử của
dòng tu chính phái Hữu tông – Đại Thừa, sau khi đến đất Hán đã ra sức đả kích quyền uy của cha, hòng tranh giành địa vị với cha.
- Sư đệ Giác Hiền à, đệ đến Trường An trợ giúp ta dịch thuật kinh
Phật, ta vui mừng khôn xiết. Thời gian qua, được cùng sư đệ luận đàm về
Pháp tướng, khám phá những lý luận vi diệu, sâu xa, ta đã học hỏi và
lĩnh hội được rất nhiều tri thức quý báu.
Cha vẫn kiên trì giữ thái độ mềm mỏng, lịch duyệt và rất mực cung kính với Giác Hiền:
- Không phải ta không muốn chuyển dịch các luận thuyết của phái Hữu
tông. Nhưng ta thiết nghĩ, học thuyết của phái Không tông đã được
truyền bá rộng rãi ở Thiên Trúc, nên người dân Trung Nguyên sẽ dễ dàng
tiếp nhận và lĩnh hội hơn. Bên cạnh đó, giáo lý của phái Hữu tông hướng
dẫn con người cách tu tập để có thể thành Phật bằng những phương thức
quá ư gian khổ, nên theo ta, trước mắt, học thuyết của giáo phái này
chưa phù hợp để truyền bá ở Trung Nguyên. Tôi gật đầu tán đồng, cha nói rất đúng. Phần lớn các giáo phái Phật giáo ở Trung Quốc đều thuộc phái
Không tông, bởi vì những lý thuyết như: “mọi chúng sinh đều có Phật
tính”, hay “chỉ cần buông đao là có thể thành Phật”, rồi thuyết “vô tình hữu Phật tính” (ngay cả các loài vô tình như núi sông, cây cỏ cũng có
Phật tính)[1'>… thì già trẻ lớn bé, ai ai cũng có thể đọc hiểu và giác
ngộ. Trong khi đó, phương pháp tu tập mà giáo phái Hữu tông đề ra rất
gian khổ, k