
m xúc yếu đuối
này.
Được gió buổi sớm mang theo hương cỏ xanh tươi thổi tới một
lúc, hơi nước trong mắt dần dần tiêu tán, sau đó lại mơ mơ màng màng ngủ thiếp
đi. Gần giữa trưa mới bị hơi nóng làm bừng tỉnh, chỉnh trang qua loa y phục lụa
mỏng bi đè nhàu rồi đứng dậy trở về (cũng may không có ai trộm mất ngựa lúc tôi
đang ngủ, tính cảnh giác quá thấp, phải kiểm điểm lại).
Lúc đến nhà thờ là khoảng giữa trưa mười hai giờ hơn, vừa
khát vừa đói, dù thế nào cũng chờ Chung Khả Thủ cùng dùng cơm trưa. Chung cha cố
gặp lại tôi rất cao hứng, tưởng là tôi lầm đường lạc lối biết quay đầu lại, vội
vàng bắt đầu truyền bá giáo lý Phúc Âm của Thượng Đế cho tôi. Khi anh ta phát
hiện tôi hoàn toàn ngu đần thì đã quá trễ ----anh ta đã bị tôi chụp lên cái mũ
bằng hữu, không thể không chịu đựng sự 'bóc lột' của tôi.<>
Sau khi tôi cơm no rượu say liền hỏi anh ta có sách viết bằng
chữ tiếng Anh hay không. Anh ta nghi hoặc hỏi tôi muốn loại sách đó làm gì, chẳng
lẽ tôi hiểu tiếng Anh sao? Tôi trả lời trước kia có gặp một vị tu sĩ Anh Quốc,
ông ta dạy tôi một chút tiếng Anh (lý do vô cùng kém cỏi, may mà anh ta lại
tin, bởi vậy có thể thấy được vị sứ giả của Thượng Đế này ngây thơ biết bao).
Anh ta lại ra ám hiệu với tôi, giáo hội Anh quốc rất bất mãn với tòa thánh La
Mã, tôi khúm núm đáp lời, nhưng cuối cùng vẫn nhất quyết không tha yêu cầu của
bản thân. Ban đầu anh ta nói mình không có sách tôi muốn, nhưng bị tôi quấn lấy
không còn cách nào đành phải lấy 'bảo bối' dưới đáy hòm ra. Ha ha, anh ta lại
có “Romeo và Juliet” nha, xem ra Tiểu Chung cũng không phải cứng nhắc như bên
ngoài! Tôi đắc ý vênh váo nói với anh ta, chờ tiếng Anh của tôi tiến bộ lại đến
nghiên cứu lý thuyết cơ học Newton với hắn. Anh ta vừa vẽ nên chữ thập trước ngực
vừa nói: "Thượng Đế! Rốt cuộc là người Anh Quốc kia đã dạy những thứ gì
cho cô chứ!" Tiếp đó bắt đầu dùng tiếng mẹ đẻ của anh ta cằn nhằn gì đó.
Lúc tiễn tôi, vẻ mặt anh ta rất phức tạp, không biết có phải
đang hy vọng tôi đừng làm phiền anh ta nữa không. Nhưng làm sao tôi có thể quên
'bằng hữu' tốt như Tiểu Chung chứ? Đương nhiên sẽ thường xuyên vào cánh cửa này
rồi.
Lúc trở về, tôi cố tình kêu tiểu tử đánh xe qua nhiều con đường,
dạo quanh kinh thành ngắm phong cảnh, đến sập tối mới trở lại phủ bối lặc. Những
cánh cửa bên hông đều có bậc cửa, xe ngựa chỉ có thể đi vào cửa hẽm phía sau.
Lúc tôi ra ngoài thì không có người đi theo, vào phủ lại có mấy ma ma đến dìu đỡ.
Tôi cười cười nói, "Mọi người cứ làm việc của mình đi, tôi biết đường trở
về rồi." Bọn họ nhìn nhau không dám kiên trì, chỉ có thể tùy tôi ôm một đống
sách nghênh ngang rời đi.
Phủ bối lặc nói lớn không lớn, nói nhỏ cũng có rất nhiều hoa
viên, sảnh đường, hàng lang, cũng may cảm giác về phương hướng của tôi rất tốt,
bởi vậy cũng không lo bị lạc đường. Tôi chọn con đường vắng vẻ, nhẹ nhàng đi tới.
Đá cuội hai bên đường mòn rải rác dưới cây muồng, mùa hè đã qua nhưng những
bông hoa màu hồng phấn vẫn còn nở, hoa Quan lông mềm như nhung, rất giống với
những đoá Hồng Anh Tử làm trang sức trên hàm thiếc và dây cương của ngựa, đó là
lý do vì sao lại gọi là "Dạ Hợp". Lão Bắc Kinh trông nom loại cây này
gọi là "Cây hoa nhung", ngày trước ở sở nghiên cứu cũng trồng một ít.
Vừa đi vừa nhìn cũng không chú ý đến tình hình phía trước,
cho đến khi chạm phải mới phát hiện đằng trước có một người. Thì ra anh ta đứng
nghiêng người, có thể là đang ngắm hoa, cũng không phát hiện ra tôi, lúc này mới
chú ý tới, chậm rai xoay người lại. Anh ta dùng ánh mắt trong trẻo lạnh lùng liếc
tôi, tôi cũng liếc anh ta. Chẳng biết sao, tình hình này làm tôi nhớ đến một
câu nói, "Gặp lại nơi ngõ hẹp, kẻ dũng cảm thắng."
Chỉ có điều loại trạng thái này cũng không duy trì được bao
lâu, có lẽ khoảng hai ba giây sau, một thái giám chẳng biết từ đâu xuất hiện
(hình như gọi là Quế Lương bên người lão Bát), hành lễ với anh ta nói: "Nô
tài thỉnh an Tứ gia."
Hóa ra đây là Tứ a ca.<>
Anh ta nhàn nhạt liếc mắt nhìn Quế Lương nói: "Đứng lên
đi."
Quế Lương đứng dậy đáp lời: "Cửu gia, Thập Tam gia, Thập
Tứ gia đều đã đến, Bát gia sai nô tài đến mời ngài đến tiền sảnh."
Anh ta "Ừ" một tiếng tỏ ý đã biết.
Dường như Quế Lương mới nhìn thấy tôi, nói: "Đây không
phải là Hàm cô nương sao? Ban nãy phúc tấn còn phái người đến tìm người đấy."
Không đợi tôi trả lời, chợt nghe Tứ a ca mang chút châm biếm
nói: "Hóa ra cô chính là Lý Hàm."
Tôi không quan trọng cười cười nói: "Đúng, tôi là Lý
Hàm." Lại cảm thấy có hơi không cung kính, liền rũ mắt xuống, nhìn áo
choàng màu tràn tro của hắn cúi người thỉnh an. Thấy anh ta cũng chẳng có phản ứng,
chắc là có thể, tôi liền cúi người đi về.
Đến dưới hành lang thấy một a hoàn, tôi liền giao đống sách
để nàng mang về giúp, bản thân thì cần phải đến chỗ Bát phúc tấn báo một tiếng.
Bát phúc tấn thấy tôi, bật cười nói: "Cả ngày nay muội
đi đâu vậy? Nhìn khuôn mặt phơi nắng đã đỏ bừng rồi kìa!" Tôi cười đáp:
"Đi đến nhà thờ thôi." Cô nhặt những cọng cỏ nhỏ trên người tôi, nói:
"Trên ng