
nàng đâu.”
Lúc này, xe ngựa của chàng đi theo đoàn xe ngựa chậm rãi chạy ra khỏi cửa thành.
Dù đã được Vương Hoằng cam đoan, Trần Dung cũng vẫn khẩn trương, đến khi
xe ngựa ra khỏi cửa thành, nàng mới kinh ngạc hỏi: “Vì sao bọn họ không
kiểm tra?”
Rõ ràng hai bên cửa thành có không ít vệ sĩ hoàng gia, vì sao không có ai đòi kiểm tra?
Vương Hoằng không đáp, chỉ có ánh mắt trong sáng nhìn nàng mang theo ý cười. Vừa ra khỏi thành, xe ngựa đã chạy về phía tây.
Đi được hơn nửa canh giờ, một con sông thấp thoáng bên đàn sơn xuất hiện ở trước
mắt Trần Dung. Bên bờ sông có một con thuyền đỗ ở đó, một thiếu niên
diện mạo thanh tú cùng hạ nhân đang ngồi chờ ở đầu thuyền, nhìn thấy xe
ngựa đến thì hắn đã thi lễ từ xa, tư thái lịch sự tao nhã.
Xe ngựa chạy đến bờ sông, Vương Hoằng thả người nhảy xuống, chàng nắm tay Trần Dung bước lên thuyền, nói: “Đi thôi.”
“Vâng.”
Thuyền lao đi như mũi tên, sau khi tạo nên một chuỗi bọt nước trắng xóa thì rẽ vào sau núi.
Phía sau núi, con sông đột nhiên chuyển dòng. Nơi này núi cao vờn quanh,
trời xanh nước biếc hòa làm một, giống nhau chốn thần tiên. Vừa quay đầu lại đã không còn nhìn thấy gì ở bờ bên kia, dường như nhân gian khói
lửa đã biến mất từ chỗ đó.
Trần Dung ngẩng đầu, nhìn thanh
sơn bốn phía, nói: “Ta cũng không biết trong thành Kiến Khang còn một
chỗ như thế này.” Trên thực tế, mặc dù nàng đã từng ở thành Kiến Khang
nhưng đại đa số thời điểm đều nơm nớp lo sợ tìm đường sống, làm sao có
cơ hội đi du ngoạn?
Sau khi nàng kêu lên một tiếng vui mừng, thấy Vương Hoằng không đáp, đảo mắt nhìn về phía chàng.
Lúc này, Vương Hoằng mặc quần áo màu trắng, chàng khoanh tay đứng ở trên
đầu thuyền, vạt áo phần phật trong gió, thật sự giống như thần tiên rơi
xuống cõi phàm. Trần Dung nhìn ngắm người trong lòng, không khỏi có chút ngây ngốc.
Đúng lúc này, chỉ nghe Vương Hoằng cất cao
giọng, cười vang nói: “Mấy người các ngươi, không phát ra một chút tiếng động, còn muốn hù dọa ta sao?”
Khi tiếng cười của chàng
vừa vang lên, bên trái sau một ngọn núi nhỏ, một tiếng đàn vang lên,
đồng thời tiếng kêu lanh lảnh của Dũ Chí truyền đến: “Vương thị Thất
lang, ngay giữa ban mày ban mặt ôm đạo cô Hoằng Vận Tử đang bị truy lùng biến mất trong thành Kiến Khang…… Thế nhân tìm kiếm đều không thấy.”
Hắn kêu gọi đến đây, một giọng lanh lảnh tiếp lời: “Sau mấy ngày, ban ngày
có người du ngoạn trên hồ, bỗng dưng gặp hắn và một phụ nhân, không biết đây là thần hay là quỷ?”
Hai người nhất xướng hợp lại, từ chân ý thiết, còn có chút động lòng người. Trần Dung không khỏi á khẩu không cười nổi.
Vương Hoằng cũng bật cười ra tiếng, chàng bắt chước giọng điệu hai người mà
lanh lảnh nói: “Vương Thất là người nào? Được thế nhân so sánh với thần
tiên trên trời. Giờ phút này là lúc nào? Chính là đầu giờ ngọ. Như thế,
tất nhiên không thể nghi ngờ là người rồi.”
Lời của chàng vừa dứt, một loạt tiếng cười to truyền đến.
Trong tiếng cười lớn, hơn mười chiếc thuyền con ùa ra, tạo nên sóng nước cuồn cuộn xuất hiện ở trước mắt Trần Dung.
Cũng là mười bốn sĩ phu nga quan bác mang, mà những người này, Trần Dung đều đã gặp qua, bọn họ đều là hảo hữu của Vương Hoằng.
Hai chữ hảo hữu này cũng không phải là nói lung tung. Nhóm sĩ phu, đa phần
là những người chú trọng về mặt tinh thần. Trong cảm nhận của bọn họ,
hảo hữu không nói tới chí hướng như nhất, vinh nhục như cộng, nhưng chắc chắn là miệng kín như bưng.
Trần Dung đắc tội với phụ nhân của Tư Mã hoàng thất, phụ nhân đã chết trong mắt mọi người lại đột
nhiên xuất hiện ở đây mà mười bốn người đều không hề cảm thấy kỳ quái.
Trong tiếng cười lanh lảnh, mọi ánh mắt đều dồn về phía Trần Dung.
Bọn họ hướng tới nàng tinh tế đánh giá một lát, trong đó một trung niên mặt trắng râu dài thở dài một tiếng, nói: “Thất lang đã thoát khỏi khổ ải,
chính là ta vẫn còn đang chờ đợi, vẫn cô tịch ở chốn nhân gian.”
Hoàn Cửu lang gầy yếu cười lạnh trả lời: “Như hắn đâu có gọi là thoát ly khổ ải chứ? Thằng nhãi Thất lang này tính toán rất kỹ. Quyết định làm ẩn
sĩ, vừa tránh khỏi trở nên nổi bật, thứ hai có thể dựa vào danh tiếng ẩn sĩ để tự dát vàng cho bản thân, thứ ba, thằng nhãi này vẫn còn chưa
trưởng thành, ngay cả ban quan tước thì hắn cũng không đảm đương nổi địa vị cao, không bằng cùng kiều thê vui vẻ mấy năm, chờ thời cơ đến, người trong thiên hạ tới mời thì sẽ xuất sĩ. Cái này gọi là treo giá.”
Ở thời đại này, làm ẩn sĩ thật đúng là hành vi tự dát vàng cho bản thân.
Mọi người đều tin tưởng ẩn sĩ là những người cao thượng, mà những người
không chịu quy ẩn, tất là tục khách nóng vội vì danh lợi. Huống chi
người như Vương Hoằng, hai lần đánh bại Mộ Dung Khác, trong cảm nhận của người trong thiên hạ chàng đã có mỹ danh của một danh tướng, nói đến
nói đi, chàng lại được bồi dưỡng để trở thành người thừa kế của Vương
thị, người như vậy, về đạo tế thế cứu dân cũng cực kỳ tinh thông. Chàng ở ẩn, tin tưởng một ngày kia khi được mời rời núi, tất sẽ khiến mọi nơi
chấn động, thế nhân quy tâm.
Lời này của Hoàn Cửu lang nói
ra khá thẳng th