
ậy không?” Trên giấy là một bức tranh, chính là bản đồ bố phòng của sơn trại, cả phòng bếp, nhà vệ sinh cũng được đánh dấu.
(bố phòng: sắp xếp người để phòng vệ, ngăn ngừa địch.)
“Lúc trước bắt được tên trùm thổ phỉ đã vẽ một bản, lần này bắt được tên Nhị đương gia kia liền vẽ một bản nữa, đây là hạ quan tổng hợp từ hai bản đó lại.” Dương Hưng do dự nói, cầm hai bản đồ đưa cho Lâu Cảnh.
Lâu Cảnh nhìn nhìn hai bức tranh, các vị trí phòng vệ đều có biến hóa, nhưng phòng bếp, nhà vệ sinh, vị trí kho lúa vẫn không thay đổi, “Vậy là đủ rồi, đa tạ Dương đại nhân.”
“Tướng quân, sắc trời đã muộn, ta có cần tấn công lên núi ngay không?” Bộ Binh giáo úy Vương Trực phiền muộn mà nhìn con đường gập ghềnh dẫn lên núi Cửu Kỳ, mắt thấy mặt trời đỏ rực đã muốn biến mất ở đường chân trời, đi đường ban đêm, đừng nói đến công sự phòng ngự của sơn trại, chỉ riêng cái sơn đạo chật hẹp kia, kỵ binh cũng khó mà phát huy được năng lực của mình.
Lâu Cảnh hơi hơi nhếch môi, liếc mắt nhìn U Vân vệ đang đứng một bên.
Vân Nhị dùng một loại họa pháp kỳ dị để vẽ lại bản đồ sơn trại một lần nữa, thoáng nhìn qua thì chỉ thấy mấy đường nét loằng ngoằng thật giống như chữ gà bới, khó có thể phân biệt, nhưng khi chuyển đến cho Vân Tam và Vân Thập Nhất chuyên về ám sát, hai người nhìn vài lần liền hơi hơi gật đầu, nhấc chân tiến vào rừng cây rậm rạp.
(họa pháp: cách thức, kĩ xảo vẽ.)
“Vây chặt các đường lên núi, hạ trại, nấu ăn!” Lâu Cảnh nâng tay, hạ một mệnh lệnh cực kì đơn giản.
Vương Trực và Trương Nhiễu hai mặt nhìn nhau, một đám tiểu tướng cũng lơ tơ mơ mà gãi đầu gãi tai, nhưng không phải tấn công lên núi vào ban đêm, tất cả đều nhẹ nhàng thở ra, nhanh chóng ấn theo mệnh lệnh của Lâu Cảnh, canh giữ chặt chẽ các đường dẫn lên núi.
Núi Cửu Kỳ gồm một nhóm núi hợp lại với nhau, kéo dài mấy chục dặm, nhưng cái sơn trại kia đóng trên một đỉnh núi cao đơn độc, khắp nơi đều là vách đá dốc đứng cheo leo và cao chót vót, một nơi dễ thủ khó công, nhưng đường xuống núi lại chỉ có hai cái. Lâu Cảnh ra lệnh năm trăm người canh giữ một cái ngã tư, những người còn lại thì trú đóng ở mặt dốc thoai thoải phía Nam, phong kín toàn bộ đường xuống núi.
Mọi người không nhanh không chậm mà cắm liều hạ trại, thổi lửa nấu cơm, lúc này, nóng lòng sốt ruột lại chính là đám cường đạo trên sơn trại.
“Báo -- Đại đương gia, không tốt, quan binh đến tấn công!” Một tên lâu la nhận nhiệm vụ tuần tra nghiêng ngả, lảo đảo mà chạy về sơn trại.
“Cái gì!” Trùm thổ phỉ núi Cửu Kỳ cả kinh, hô to, “Lão Tứ, mau, dẫn người đi bảo vệ cửa lên núi!”
Một lúc lâu sau.
“Báo -- Đại đương gia, nhóm quan binh kia hạ trại ở dưới chân núi rồi!” Lâu la nhận nhiệm vụ tuần tra lại vội vội vàng vàng mà chạy về sơn trại.
“Đây là tính toán vây chúng ta sao?” Gã trùm thổ phỉ không rõ ràng cho lắm, lại cho người đi tìm hiểu.
Lại một canh giờ.
“Báo -- Đại đương gia, bọn họ nhóm lửa nấu cơm!” Tên lâu la thở hổn hển như sắp hết hơi mà chạy về sơn trại.
Nhóm sơn phỉ triệt để hồ đồ, rốt cuộc là nên ở lại phòng thủ hay chạy trốn đây? Cuối cùng, trùm thổ phỉ cắn răng một cái, chắc nhóm quan binh kia thấy trời đã tối nên không lên núi, có lẽ còn có thể chống đỡ vài ngày, chờ ngày mai trời sáng sẽ chậm rãi thu thập gia sản, tìm một đường tốt nào đấy giết đi ra ngoài.
Ban đêm, trong quân doanh hoàn toàn yên tĩnh, chỉ có tiếng bước chân tuần tra lộp cộp vang lên.
“Ô kìa? Vệ tướng quân, ngài xem đó là cái gì?” Một tiểu binh đang tuần tra đột nhiên hô lên, nói với Vương Trực phụ trách trực đêm.
Vương Trực ngẩng đầu, đột nhiên nhìn thấy một khu vực ở gần đỉnh núi đang bốc cháy dữ dội, ánh lửa sáng bừng một góc trời, tiếng kêu la gào thét theo gió núi truyền thẳng đến nơi này, lập tức nhấc chân bước nhanh đến doanh trướng của Lâu Cảnh.
“Khởi bẩm Đại tướng quân, sơn trại trên kia đột nhiên bốc lửa.” Vương Trực đứng ở ngoài trướng, cao giọng hồi bẩm.
Lâu Cảnh đang nghiêng người tựa vào vai phu quân nhà mình ngủ ngon lành, nghe vậy liền ngẩng đầu lên, ngáp một cái, “Phân phó đi xuống, giữ nghiêm các đường xuống núi, một người cũng không để thoát.”
“Đả thảo kinh xà” xuất phát từ một điển tích sau: Vào đời nhà Đường có một quan huyện tên Vương Lỗ, một tham quan, thường quen hối lộ, vơ vét của dân. Thân nhân, bộ hạ của y cũng dựa vào thế lực để ăn có, làm trăm họ điêu linh. Một hôm Vương Lỗ nghe tin triều đình sai người xuống thanh tra, tìm hiểu dân tình và giải quyết những oan ức. Quan ngày đêm lo lắng, vì hàng ngàn lá đơn thưa kiện thuộc hạ hối lộ, hiếp đáp dân lành. Trong cơn hoảng loạn, Vương Lỗ đã phê trên một lá đơn: “Ngữ tuy đả thảo, ngô dĩ kinh xà”, nghĩa là “Các ngươi tuy mới đập cỏ, ta đây đã sợ như rắn bị kinh động”. Người đời sau dựa vào câu nói này và đơn giản thành bốn chữ “Đả thảo kinh xà”.
Đây là một diệu kế thường được áp dụng để dụ địch, thường có hai tình huống sau đây:
- Làm cho đối phương dẫn “xà” ra khỏi chỗ an toàn, tập trung tiêu diệt.
- Làm kinh động để “xà” chạy trốn, thừa cơ phục kích.
(thuyết phục làm cho quy phục, dụ hàng)
“Tứ đương gia, sơn trại bị cháy rồi!