80s toys - Atari. I still have
Thích Khách Vô Danh

Thích Khách Vô Danh

Tác giả: Đang cập nhật

Thể loại: Truyện ngôn tình

Lượt xem: 325410

Bình chọn: 9.5.00/10/541 lượt.

p nhất nan kinh>,
Thi>, , , , *

các loại, thâm niên lâu ngày mới có thể thông kinh đạt biến, thông hiểu đạo lí.

*Hoàng Đế thập bát nhất nan kinh

là sách kinh điển Đông y, do Biển Thước Tần Việt Nhân rút ra trong “Tố Vấn -

Linh khu”, gồm 81 trường hợp khó hiểu theo dạng hỏi đáp để giải thích. Đặc

biệt, phần chẩn mạch, sách lấy “độc thủ thốn khẩu” làm chủ, học thuyết Kinh

lạc, Mệnh môn và Tam tiêu trong tạng phủ phát triển từ trong Nội kinh cũng như

nguyên lý xem mạch ở cổ tay là một sáng kiến được áp dụng suốt mấy ngàn năm

nay. Ngoài ra, sách có thêm phần chữ Hán có âm và nghĩa để người đọc tiện tham

khảo.

Hoàng Đế nội kinh tên đầy đủ là

Hoàng Đế nội kinh tố vấn là một trong tứ đại kì thi Đông Phương. Sánh ngang các

tác phẩm Chu Dịch, Mai Hoa Dịch, đạo đức kinh. Tác phẩm này được coi như công trình

lý luận hàng đầu của nền y học Đông Phương. Từ xưa các danh y nổi tiếng đều coi

đây là cuốn sách gối đầu giường hỗ trợ đắc lực trong việc nghiên cứu chẩn trị

và truyền dạy cho đệ tử. Cho đến nay, bộ sách quý giá này vẫn được sử dụng

trong thực tế lâm sàng.

Kinh Thi là một bộ tổng tập thơ

ca vô danh của Trung Quốc, một trong năm bộ sách kinh điển của Nho giáo. Các

bài thơ trong Kinh Thi được sáng tác trong khoảng thời gian năm trăm năm, từ

đầu thời Tây Chu đến giữa thời Xuân Thu, gồm 311 bài thơ. Kinh Thi chia làm ba

bộ phận lớn là Phong, Nhã và Tụng. Nguồn gốc các bài thơ trong Kinh Thi khá

phức tạp, gồm cả ca dao, dân ca và nhã nhạc triều đình, với các tác giả thuộc

mọi tầng lớp trong xã hội đương thời. Từ lĩnh vực dân gian, âm nhạc được chuyển

sang lĩnh vực thành văn rồi thành kinh tịch, Kinh Thi đã trải qua quá trình sưu

tầm, chỉnh lý, biên soạn công phu.

Kinh Thư là một bộ phận trong bộ

sách Ngũ Kinh của Trung Quốc, ghi lại các truyền thuyết, biến cố về các đời vua

cổ có trước Khổng Tử. Khổng Tử san định lại để các ông vua đời sau nên theo

gương các minh quân như Nghiêu, Thuấn chứ đừng tàn bạo như Kiệt, Trụ. Kinh Thư

bao gồm Ngu thư (ghi chép về đời Nghiêu Thuấn), Hạ thư (ghi chép về nhà Hạ),

Thương thư (ghi chép về nhà Thương) và Chu thư (ghi chép về nhà Chu).

Chu Dịch thực ra được coi là một

tác phẩm cấu thành từ Kinh Dịch và Thập Dực. Kinh Dịch là bộ sách kinh điển rất

lâu đời của người Trung Hoa. Nó là một hệ thống tư tưởng triết học của người Á

Đông cổ đại dựa trên cơ sở của sự cân bằng thông qua đối kháng và thay đổi

(chuyển dịch). Ban đầu, Kinh Dịch được coi là một hệ thống để bói toán, nhưng

sau đó được phát triển dần lên bởi các nhà triết học Trung Hoa. Cho tới nay,

Kinh Dịch đã được bổ sung các nội dung nhằm diễn giải ý nghĩa cũng như truyền đạt

các tư tưởng triết học cổ Á đông và được coi là một tinh hoa của cổ học Trung

Hoa, nó được vận dụng vào rất nhiều lĩnh vực của cuộc sống như thiên văn, địa

lý, quân sự, nhân mệnh.v.v...

Lễ Ký hay còn gọi là Kinh Lễ là

một quyển trong bộ Ngũ Kinh của Khổng Tử, tương truyền do các môn đệ của Khổng

Tử thời Chiến quốc viết, ghi chép các lễ nghi thời trước. Toàn bộ Kinh Lễ được

viết bằng tản văn, không chỉ miêu tả chế độ lễ nghi đương thời mà còn giáo dục

về nhân nghĩa, đạo đức, ngoài ra có giá trị về văn học rất lớn.

Xuân Thu cũng được gọi là Lân

Kinh là bộ biên niên nước Lỗ viết về giai đoạn từ năm 722 TCN tới năm 481 TCN.

Đây là văn bản lịch sử Trung Quốc sớm nhất còn lại và được ghi chép theo các

quy tắc sử biên niên. Văn bản cực kỳ súc tích, và nếu chúng ta bỏ toàn bộ những

lời phê bình, nội dung sẽ dài khoảng 16.000 nghìn từ, vì thế chỉ có thể hiểu

được nghĩa của nó với sự hỗ trợ của những lời bình của các học giả thời xưa,

đặc biệt theo truyền thống Tả Truyện. Bởi vì theo truyền thống, cuốn sách này được

coi là do Khổng Tử biên soạn (theo giả thuyết của Mạnh Tử), nó được đưa vào

trong bộ Ngũ Kinh của văn học Trung Quốc. Tuy nhiên, rất ít học giả hiện đại

tin rằng Khổng Tử có nhiều ảnh hưởng trên quá trình trước tác văn bản này mà nó

là tác phẩm của nhiều nhà biên niên sử người nước Lỗ.

Phương

thức châm cứu của Tiết Đồng là châm kim phối hợp cùng dược cứu. Thủ pháp có

chút tương tự với "Hỏa châm thứ tú" của dân gian. "Hỏa châm thứ

tú" tức là dùng lửa làm nóng que hàn, vận dụng các thủ pháp câu, lặc,

điểm, nhiễm, sát, bạch miêu (phác họa,

khắc, chấm phá, nhuộm, cọ đánh, vẽ đơn giản bằng mực, đại khái là thế T^T)

vân vân của tranh Trung Quốc, trên trúc mộc, giấy Tuyên, tơ lụa các loại vật

liệu tạo ra dấu vết như vẽ tranh, nắm chắc độ lửa, cùng độ mạnh yếu, chú ý

"ý tại bút tiên, lạc bút thành hình" (đưa ý nghĩ vào bút, đặt bút thành hình).



thời điểm Tiết Đồng sử dụng cương châm, thủ pháp thành thạo lưu loát, tác phong

tao nhã cẩn thận, như vẩy mực vẽ tranh, dáng vẻ phóng túng, không chút dung

tục.

Bên

này Tiết Đồng dáng vẻ tiêu sái, bên kia Mạc Hi lại khổ không chịu nổi. Dù là

nàng xưa nay ẩn nhẫn tự kiềm chế, đau đớn như thiêu như đốt kéo dài không dứt

cũng khiến nàng âm thầm nghiến răng oán thầm không thôi, đây thật đúng là đòi

mạng, cả