
n
lầu hoang đầy tuyết ngẫu nhiên lộ ra một góc sơn đỏ loang lổ, càng hiện rõ sự
tĩnh mịch thê lương.
Đi qua một cây cầu đá có đề hai
chữ "Điệp trướng" (núi non
trùng điệp), tiếp tục đi một nén hương nữa là một cây cầu hình vòm có đề
hai chữ "Chẩm giang" (gối lên
sông). Mạc Hi nhìn dãy núi phía sau, lại nhìn bậc thang xuống dưới ở đằng
trước, một dãy cửa hàng nối tiếp con đê đá trên sông, tỉnh ngộ: chỉ bốn chữ này
đã nói hết kết cấu của bến đò Phong Lăng.
Nàng còn chưa kịp tán thưởng cổ
nhân sử dụng văn tự xuất thần nhập hóa, liền thấy trong tuyết trắng một bóng
người mặc áo thu màu sẫm, không khỏi âm thầm thở dài một tiếng: âm hồn không
tan.
Mạc Hi một đường đi tới vẫn
chưa hiển lộ võ công, có lẽ hắn nghe thấy tiếng bước chân, quay đầu, chớp mắt
một cái liền đến trước mặt nàng, chưa nói đã cười. Nụ cười kia trong nắng sớm
nhàn nhạt, giữa băng tuyết, lại có cảm giác đất hoang nở hoa. Một lát sau mới
nói: "Thật xin lỗi, ta thức quá sớm, không đành lòng quấy nhiễu giấc ngủ
của cô, nên không gọi cô cùng đi." Giọng nói ôn hòa hiền hậu, giống như
nói chuyện cùng bạn bè.
Mạc Hi trong lòng thầm mắng: vô
nghĩa, ta có thể không nghe thấy động tĩnh cách vách sao... Cô nương ta không
sợ ngươi đi xa, chỉ sợ ngươi đi không đủ xa. Trên mặt lại bất động thanh sắc
nói: "Là ta thức trễ." Trong lòng lại tiếp một câu: đáng tiếc còn
chưa đủ trễ.
Soái ca ‘tự nhiên’ nghe nàng
trả lời như thế, ngược lại ngẩn người, nhưng chốc lát liền khôi phục nụ cười,
hỏi: "Cô nương có phải lần đầu tiên đến đây qua sông hay không?"
"Đúng thế."
Sau đó hắn lại lít rít líu ríu
nói một vài thứ không có dinh dưỡng (những
câu chuyện nhạt nhẽo, không quan trọng), Mạc Hi chỉ cảm thấy đi cùng người
này giống như đặt mình trong đàn quạ đen. Kỳ thật hắn nói về phong cảnh, nhân
tình một số nơi rất là thú vị, chỉ là lộn xộn chút. Hơn nữa trong lời nói nghe
ra là một người đọc rộng nhớ lâu, đi lại nhiều nơi. Chỉ là Mạc Hi hành tẩu
giang hồ một thân một mình đã quen, liền có chút không kiên nhẫn.
Một đường kiềm nén xúc động
muốn trực tiếp đánh bay hắn. Thật vất vả qua khỏi gác chuông, sắp đến bến đò.
"Nơi này được gọi là 'Quá
Nhai tháp'. Tháp chính là phật, rất nhiều người vội qua đò không kịp đi lễ Phật
nơi đây, liền xây dựng tháp này thành dạng rỗng, mọi người đi qua dưới tháp,
liền tính đã lễ Phật, có thể phù hộ bình an. Trong tháp vốn có treo một thanh
kiếm, đó là một trong thập đại danh kiếm Thừa Ảnh."
Mạc Hi nghe đến đây, hai mắt
sáng ngời, cảm thấy hứng thú hỏi: "Vậy sau đó thế nào, thanh kiếm này vì
sao lại đổi chỗ?"
Soái ca ‘tự nhiên’ thấy nàng
hứng thú, đương nhiên càng ra sức nói: "Sau khi bến đò Phong Lăng xây
xong, trăm năm nay bởi vì có đông khách qua đường, dần dần trở thành nơi hết
sức phồn hoa. Những mảnh đất hai bên đê đá, lại càng tấc đất tấc vàng, cũng
thành nơi tụ tập buôn bán khi đó. Quán trọ, tiệm trà, cửa hàng, lần lượt mọc
lên, nằm dọc theo thềm đá. Tất cả hàng hóa của những thôn trang gần đây đều đem
đến buôn bán, sầm uất có thể tưởng tượng được. Người giàu trong vùng này, tự
nhiên sẽ cảm thấy đây là một khối đất phong thuỷ quý hiếm, liền nói là có rồng
nằm. Nhưng sau đó mọi người lại sợ rồng trong vùng theo dòng sông mà chạy đi,
vì thế ngay tại bến đò Phong Lăng tạo nên tháp này, trấn long thân. Lại treo
Thừa Ảnh kiếm có thể trấn yêu trừ tà trong tháp, để uy nhiếp du long."
"Rồng là linh vật, vì sao
lại dùng Thừa Ảnh có thể trấn yêu tránh tà chứ?"
"Rồng tuy là linh thú,
nhưng vẫn không thay đổi được khí thế hung ác, Thừa Ảnh xưa nay được xưng là
tao nhã chi kiếm, có thể hóa lệ khí (khí
thế hung ác) thành tường hòa (tốt
lành hài hòa)."
"Là ai đem Thừa Ảnh để vào
trong tháp?"
"Là chủ nhân ngày xưa của
nó, người được mệnh danh thiên tài võ học tức tiền nhiệm chưởng môn Hà Quần
Thanh của Thục Sơn phái. Ngày xưa Hà Quần Thanh vì cuộc sống của bá tánh thiên
hạ, chủ động dâng ra bội kiếm tùy thân cùng ông ấy gắn bó làm bạn nhiều
năm."
Mạc Hi biết rõ hắn nói một nửa
lưu một nửa là cố ý, lại cũng không thể không hỏi: "Vậy vì sao sau này lại
lấy đi?"
"Sau đó chưởng môn Thục
Sơn là Lâm Tích bỏ phái Thục Sơn, Thục Sơn như rắn mất đầu, lòng người dao
động, vì chỉnh nhân tâm, chấn uy danh, Thừa Ảnh liền được Hà Quần Thanh thu
hồi, truyền cho đương nhiệm chưởng môn Cù Diệu."
Mạc Hi nghe đến đây không khỏi
âm thầm tự nhủ, đã là vật truyền thừa cho người đủ tư cách làm chưởng môn, Cù
Diệu há lại dễ dàng đồng ý giao kiếm. Việc này còn cần suy tính kĩ hơn.
Hai người một đường trò chuyện
với nhau đến bến đò.
Đợi không đến nửa canh giờ, đò
liền rời bến. Cảnh sắc hai bên bờ sông thật là hùng vĩ, xa xa những ngọn núi
cao hiểm trở như xuyên thẳng đến trời cao nằm cạnh dòng sông chảy thẳng rồi đột
ngột đổi hướng. Bên bờ cành quỳnh cây ngọc trong suốt lóng lánh, sương đọng
trên lá cây lấp lánh ánh bạc.
Vì nước sông chảy xiết, vả lại
còn có băng trôi, nên thân thuyền tạo thành từ gỗ thô (gỗ nguyên cây, chỉ đục đẽo phần giữa để có chỗ ngồi) bền chắc,
mặc dù so ra kém thuy