
Em đến anh bây giờ được không?
…
Chỉ là một tin nhắn.
Từ một số điện thoại lạ hoắc.
Cộc lốc. Đơn giản. Không rào đón.
Như một cú đấm mạnh. Những ngón tay tôi run lên. Căn phòng như mở rộng. Khí trời ẩm sương ùa vào bầu phổi nghét đặc khói thuốc.
Và mặt trời – rất đủng đỉnh như không có gì để vội vã – lười nhác chiếu
chút ánh sáng lờ đờ qua tầng mây xám trắng hứa hẹn một ngày mưa. Tôi thở dốc. Đặt chiếc toan sang một bên. Cuống quýt lùa tay vào chiếc áo sơ mi bò bạc màu. Đẩy cửa. Rồi đi như chạy trên con đường rải sỏi trước nhà.
Xe thổ mộ – xe máy – xe ô tô – ngựa… gì cũng được, miễn sao tới được
đỉnh Lang Biang. Cao nguyên hôm nay lại lạnh nữa rồi.
Chỉ là một tin nhắn
Đơn giản.
Và đêm nay, em đã lại ngủ yên trong vòng tay tôi.
Gọn gàng, yên tâm và thanh thản.
Những lọn tóc xoăn mềm rủ xoà trên ngực tôi buồn buồn. Vầng trán trắng mịn
không gợn một nếp suy tư, hơi thở đều đặn bình yên như thể mặc kệ ngoài
kia thế giới có sụp đổ. Cảm giác một bên vai tê râm ran, nhưng tôi vẫn
nằm lặng. Em chỉ thích gối đầu tay, đặt đầu lên điểm hõm giữa cánh tay
và bả vai của tôi. Và ngủ. Kỳ lạ thật, Đà Lạt tôi có em đêm nào cũng
mưa.
Em không đẹp. Hay ít ra – không đẹp như rất nhiều cô gái đã
từng ghé qua căn phòng này của tôi – trước em và sau em. Căn phòng bụi
bặm, những mảnh toan đặt lộn xộn khắp nơi, và những mảng mầu vương vãi…
Tôi là một doanh nhân, không phải loại hoạ sĩ nửa mùa, nhưng trong căn
phòng này – thế giới sắc màu hoang hoải đến bất an của một gã ngang tàng xứ núi lại là những vạch đời mà những cánh bướm chọn để dừng chân.
Em không phải là cánh bướm.
Và em chưa bao giờ “chọn” tôi – tính theo các cách thông thường.
Tôi nhặt được em trên đỉnh Lang Biang. Sau một cú ngã ngớ ngẩn của người –
đi – chinh – phục – đỉnh – núi. Em – con ngốc bướng bỉnh nhất tôi từng
gặp – đã nhét đầy túi bánh mì, ruốc và nước, để leo lên đỉnh Lang Biang
một mình – không có người dẫn đường. Qua dốc đứng, qua vạt rừng, qua đèo cao… để rồi ngã trẹo chân đập đầu vào đá vì một hòn sỏi vô duyên nằm
ngơ ngáo trên đỉnh cao nguyên ngùn ngụt gió.
Và tôi đã mang em về đây, trên lưng mình. …
Những đêm dài đắm say.
Những ngày dài bải hoải.
Tôi chưa từng làm tình với em. Mỗi lần lùa tay vào mái tóc mát mềm ấy, tôi
thấy lòng ấm áp. Những câu chuyện tưởng chừng không có gì dứt nổi giữa
chúng tôi có thể lan man đến bất tận nếu như trong tôi không bất chợt
thổi bùng lên khao khát. Và cứ mỗi lần như thế, xiết em trong vòng tay,
giữa tiếng mưa đêm phố núi tĩnh mịch, tôi lại lặng lẽ nhận ra rằng em đã chợp ngủ, thản nhiên như một lời từ chối dịu dàng.
Chỉ khi bên
em, tôi mới có những phút nằm yên ắng, nghe tiếng dế đêm rả rích, tiếng
mưa gõ đều đặn vào kính cửa… tiếng gió hút heo trên những ngọn thông già nơi đỉnh dốc… Hơi cỏ nồng lùa vào những khe cửa kiểu Pháp cổ. Và dạ lan tiên…
Thật ngớ ngẩn. Với một gã – tôi.
Vậy mà mọi chuyện đã từng như thế và luôn là như thế. Đà Lạt của tôi và Đà Lạt có em là hai thế giới khác hẳn nhau. “Nói chuyện với em đi…” …
“Để em kể cho anh nghe nhé, chỗ em ở
cũng là ở trên đỉnh một ngọn đồi, mỗi khi tuyết xuống, mọi thứ đóng
băng. Ngày hôm sau, bọn em chỉ việc lấy một tấm nilông đặt xuống đất,
ngồi lên rồi cứ thế trượt xuống dưới dốc mà chẳng tốn công tẹo nào. Con
mèo Cat-xơ-ka cứ mặt trời lặn là leo lên cành thông lớn, ngồi ở đó và
làu nhàu cả đêm. Có những hôm bực mình, em mở cửa sổ và ném cả một cục
nến to về phía cái cây, nó chỉ kêu nghéo nghéo, im lặng vài phút rồi đâu lại hoàn đấy. Thường thì em vẫn để dành cho nó dăm khúc cá khô đặt trên bệ cửa sổ, nhưng có những đợt nó tha ở đâu về một lũ bạn, mèo hoang xứ
ấy nhiều không kể xiết…” …
“Anh có tin là con người có giác quan
thứ sáu không? Hồi nhỏ xem Jane Eyre, em cứ nằm mơ mãi cảnh Jane bàng
hoàng chạy bổ ra thảo nguyên bao la vì nghe thấy tiếng người yêu cô ấy
gọi khi đang ở cách đấy hai nghìn dặm. Nếu quả thực con người có giác
quan thứ sáu, và nếu cứ mỗi lần có người gọi tên thì người bị gọi sẽ hắt hơi – thì ắt hẳn anh đã chết vì cảm cúm từ lâu rồi – bởi vì mỗi một
giây một phút, có bất cứ chuyện gì, em cũng đều gọi tên anh… Anh làm sao biết được mỗi buổi chiều trên đường đi làm về, em đều nói chuyện với
anh – rằng hôm nay em đã phải làm gì, làm được những gì và không làm
được những gì… Chỉ là những chuyện huyên thuyên không đầu không cuối,
trong không gian cái xe chật hẹp của em…
Anh sẽ không bao giờ
biết được có những buổi trưa mùa đông, và nắng, và mưa, lạnh. Em ngồi
trên ghế đá, rét run và lẩy bẩy tự hỏi mình đang làm cái quái gì ở đây?
Em đã bỏ thói quen phóng xe điên cuồng mỗi khi nỗi nhớ anh ập đến vào
buổi trưa, xế chiều, hay tối. Em cần gì ở anh? Không, em không cần gì
cả, có lẽ những gì em đã có – em phải biết tự hài lòng và mang ra dùng
để tự xoa dịu mình mỗi khi cô đơn… Thật kỳ cục, dường như mọi thứ xung
quanh em đã chia thành hai nửa thế giới biệt lập, một nửa thế giới là
công việc, bạn bè, nghĩa vụ chất chồng… và một nửa thế giới có anh, chỉ
có anh và em