
hích rõ ngọn
ngành, còn hứa sau sáu mươi năm nhất định sẽ đưa nàng về, mới xoa dịu
được cơn giận của bà.”
A Hành xưa nay cứ ngỡ mẹ mình nghiêm khắc bảo thủ, nào ngờ bà lại nuông chiều nàng đến thế, bất giác cay cay khóe mắt.
Thiếu Hạo cười, “Thanh Dương để nàng ở lại Ngọc sơn sáu mươi năm đâu phải vì
sợ Vương Mẫu mà chính vì thương thế của nàng đấy chứ. Lần trước nàng bị
thương rất nặng, thủy linh của Quy khư chỉ giữ được mạng chứ không trị
dứt được vết thương, ta đã phải cùng Thanh Dương đi khắp nơi lùng tìm
linh đan diệu dược, nào ngờ cơ duyên xảo hợp, Vương Mẫu lại giam cầm
nàng, Thanh Dương bèn quyết định tát nước theo mưa luôn. Ngọc sơn là
thánh địa từ thời thượng cổ, linh khí rất hợp với nữ giới, trên núi lại
có đào tiên ngàn tuổi, ngọc tùy vạn năm, vừa khéo điều dưỡng được thân
thể của nàng.”
Hóa ra là vậy! Hẳn Xi Vưu cũng vì thế mà sáu mươi năm sau mới tới đón nàng xuống núi. Nghĩ tới đây, nàng sững sờ chẳng
thốt nên lời, lòng ngổn ngang trăm mối.
Thiếu Hạo cười nói: “Nếu không vì thế, Tứ ca nàng đâu có chịu khoanh tay ngồi nhìn. Tuy Xương Ý
tính nết ôn hòa nhưng rất mực cưng chiều em gái, dù Thanh Dương không ra tay, y cũng tự xoay xở nghĩ cách, chẳng hiểu sẽ gây ra những chuyện gì
nữa.”
A Hành nhoẻn miệng cười tươi rói, “Tứ ca hiền lắm, chẳng bao giờ gây chuyện đâu.”
Thiếu Hạo lắc đầu cười, “Nàng chưa thấy Xương Ý nổi giận đấy thôi.”
“Chàng thấy rồi ư? Sao Tứ ca lại nổi giận?” Tây Lăng Hành kinh ngạc hỏi.
Thiếu Hạo đáp quấy quá: “Ta cũng chưa thấy, chỉ nghe nói thôi.”
A Hành hỏi: “Bây giờ Đại ca thiếp đâu?”
Thiếu Hạo cười đắc ý: “Hắn đánh ta bị thương thế này, ta đời nào để yên cho
hắn? Hắn bị thương còn nặng hơn ta, chẳng cưỡi nổi tọa kỵ nữa, lại sợ bị phụ vương nàng phát hiện nên lấy cớ đi thăm mẫu hậu, chuồn về núi Hiên
Viên dưỡng thương rồi.”
A Hành hỏi: “Chàng bị thương thế này, sao ban sáng còn dám nói cứng với Vương Mẫu thế?”
Ánh mắt Thiếu Hạo lóe lên ranh mãnh, “Việc binh chẳng nề gian trá, mà nói
vậy cũng đâu phải là gạt Vương Mẫu! Nếu Vương Mẫu ra tay thật thì ta
đánh bài chuồn, dù sao bà ta cũng chẳng thể xuống núi, không bắt được ta đâu!”
A Hành ngớ người ra rồi phá lên cười. Thiếu Hạo vang danh thiên hạ hóa ra lại láu cá thế này ư!
Những ngượng ngùng giữa đôi bên cũng theo tiếng cười mà tan đi cả.
Đương lúc đêm hè tháng Sáu, muôn ngàn ánh sao nhấp nháy trên nền trời đen
thăm thẳm như đứa nhỏ mê mải chơi trốn tìm, loài hoa dại không tên nở
đầy sơn cốc, bông xanh bông vàng chen nhau, thỉnh thoảng trong rừng vang lên tiếng cú rúc thê lương khiến màn đêm đượm phần rùng rợn, gió đưa
hương cỏ cây ngan ngát khắp nơi làm người ta nhẹ nhõm vô cùng.
Thiếu Hạo đứng dậy định giục A Hành lên đường, nào ngờ nàng đã ngước lên khẽ
năn nỉ: “Nán ngồi thêm lát nữa hãy đi được không? Sáu mươi năm nay thiếp mới lại được trông thấy quang cảnh này đó.”
Thiếu Hạo không đáp, chỉ lặng thinh ngồi xuống, rút bầu rượu ra vừa ngắm sao vừa uống.
A Hành chun chun mũi ngửi, nhắm nghiền mắt nói: “Đây là Điền tửu đất Điền.”
Bình sinh Thiếu Hạo có ba tuyệt kỹ – rèn sắt, ủ rượu, gảy đàn, thấy A Hành
ngửi hương đoán rượu, y liền nhận ra ngay đồng đạo, “Không sai, hơn hai
trăm năm trước ta mất bao công sức mới moi được bí quyết này từ một
người dân Điền đấy.”
A Hành phụ họa: “Chín mươi năm trước thiếp
qua đất Điền, lập tức mê tít rượu ở đó, nán lại cả năm trời vẫn chưa đã
thèm, hùng tửu thì nồng đượm, thư tửu thì thanh khiết, uống riêng đã
ngon, uống chung càng ngon hơn.”
Thiếu Hạo ngẩn người, ngạc nhiên hỏi: “Hùng tửu? Thư tửu? Sao ta chưa từng nghe rượu cũng chia ra thư hùng[3'> nhỉ?”
[3'> Hùng, thư: chỉ giống đực và giống cái. (ND)
A Hành cười đáp: “Thiếp tới đất Điền mới hay rượu cũng phân thư hùng đấy. Một cô gái rất giỏi nghề ủ rượu kể với thiếp rằng tổ tiên cô ấy vốn chỉ là một tiều phu đốn củi trong núi, tính mê rượu nhưng nhà nghèo chẳng
có tiền mua nên cứ đau đáu nghĩ cách cất rượu từ cây cỏ hoa trái trên
núi. Có chí thì nên, một hôm ông ta nằm mơ thấy cách cất rượu, cất được
loại rượu ngon, chẳng những đậm đà thơm ngát mà còn bổ thân dưỡng thể.
Ông ta dâng rượu lên Điền vương, được Điền vương hết lòng sủng ái. Nào
ngờ long ân dồi dào lại khiến cho người ngoài ghen ghét, chúng dùng đủ
cách đoạt lấy bí quyết cất rượu nhưng ông ta vẫn giữ kín như bưng. Về
sau ông ta gặp một cô bán rượu, cũng rất giỏi nấu rượu, đôi bên kết
thành vợ chồng ân ân ái ái, mấy năm sau sinh được một trai một gái. Ông
ta tiết lộ cho vợ cách nấu rượu, bà vợ dựa theo đó nấu ra một loại rượu
khác, hai loại rượu cùng một xuất xứ nhưng một cương một nhu, một nồng
đượm một thanh khiết, vợ chồng họ nhờ rượu mà quen nhau, nhờ rượu mà
thành hôn, lại cũng nhờ rượu mà khăng khít bền lâu. Đương lúc họ hạnh
phúc vẹn tròn thì có kẻ dâng lên đại vương thứ rượu hệt như của họ nên
dần dần họ bị thất sủng, còn bị người ta hãm hại, cả nhà rơi vào hiểm
cảnh. Ông chồng nghi ngờ bà vợ phản bội mình, bà ta không sao biện bạch, đành tự vẫn ngay trước vò rượu đang ủ, lấy cái chết tỏ lòng mình, máu
biếc