
nh em D10 bảo vệ.
Mỗi
lần có anh em từ trong E bộ ra, ai cũng thấy chốt ấm lại, thêm được vài chục
tay súng là rất quý. Những ca gác sẽ ngắn lại và không khí bớt phần lạnh lẽo.
Đêm xuống, dưới hầm… tin tức sốt dẻo ở hậu cứ và tình hình của các đơn vị khác
là những câu chuyện nóng hổi. Vui nhất là có chút khói thuốc và ấm trà tỏa mùi
thơm, cùng những cánh thư từ quê nhà. Anh em đồng hương đồng khói cũng chả có
gì để biếu nhau, có khi chỉ là một hũ ớt, tỏi, hành ngâm với nước muối để ăn dần
cũng rất là quý. Không hiểu sao ngay cả hương vị trái ớt cũng thèm, mỗi bữa ăn
cả A chỉ được dùng vài trái. Trung đoàn 95 có C16 nổi tiếng là đơn vị trồng nhiều
ớt nhất. Khi nghe tin có đoàn ra D2, anh em trong E bộ và D10 và khối các C trực
thuộc đóng quân gần đó, cũng tìm cách kiếm rau hay bất cứ cái gì mà chốt D2 cần
gửi ra. Tôi được anh Lập C trưởng trinh sát 95 gửi cho hai gói Samit và hai
bánh thuốc rê Kulen… Quý vô cùng.
Bữa
cơm chiều… những đặc sản từ trong E bộ mang ra bày biện khắp bàn ăn. Bát nước
trà thơm bốc khói… khói thuốc bay lên ngoằn ngèo giữa không trung. Quá tuyệt… Những
gương mặt tươi tỉnh… Cho đời bớt khổ.
ĐÀI QUAN SÁT D2 QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH.
Sau
trận địch tập kích cối vào đơn vị D bộ. BCH D2 buộc phải có một phương án đánh
địch mới, khắc phục tình trạng ta bị động. Thực tế thì ta không phải bị động
nhưng vấn đề là “làn ranh biên giới.” Kinh nghiệm chiến tranh được vận dụng đến
mức tối đa: lập đài quan sát.
D
trưởng D2 quyết định đi tìm vị trí thích hợp để đặt đài quan sát.
Bộ
phận tiền trạm bao gồm D trưởng D2, trợ lí tác chiến của D, C phó C5 và C trưởng
C8, khẩu đội trưởng DKZ, cùng trinh sát của F và E và anh em bộ binh c5.
Từ
d bộ d2 chúng tôi hành quân đến vị trí, qua các bãi tráng và bám theo các bình
độ để tiếp cận dãy yên ngựa. Đội hình hơn ba mươi người trang bị nhẹ để việc
leo trèo được dễ dàng… lầm lũi từng bước từng bước… Những vách đá gần như là dựng
đứng, bọc quanh các kẽ hở của vách đá là rễ cây ngũ gia bì và thân của những
dây leo. Trinh sát và trợ lí tác chiến leo đầu tiên mở đường. Phải bám, đu vào
các thân cây, bò men theo các vực đá thậm chí phải đu dây sóng rắn, dây ngũ gia
bì để chuyền từ vách này sang vách kia như một con khỉ. Thực hiện những động
tác này theo kinh nghiệm, là đừng nhìn xuống vực sâu dễ tạo tâm lí sợ sệt…và thực
tế, nhiều anh em bộ binh khi ôm dây ngũ gia bì mà run như cầy sấy. Khu vực này
trái hồng dẹt rất nhiều, chín vàng từng chùm trông rất bắt mắt (hồng có hai loại,
loại như trái thanh trà và hồng tròn. Hồng dẹt nhỏ trái nhưng thơm và ngọt. Hồng
tròn thì to quả nhưng độ ngọt không bằng hồng dẹt). Phải mất hơn hai giờ leo
trèo như khỉ, bộ phận tiền trạm mời đến đỉnh của dãy yên ngựa. Hoang sơ, nguyên
thủy và vắng lặng… chưa có bàn chân người đặt chân lên mỏm đá này. Sau hơn một
giờ vòng quanh tìm địa thế, cuối cùng cũng tìm được một vị trí thích hợp.
Đài
quan sát là một mỏm đồi nhỏ, diện tích bằng phẳng có thể sinh hoạt chừng 30 m2
ở hướng đông cao điểm 428, nó là mỏm đồi vì nằm trên yên ngựa có bình độ
cao nhất nhì trong địa bàn đứng chân của D2. Đứng trên đỉnh đồi này có thể quan
sát được toàn bộ khu vực D bộ D2 và một phần bình độ chân của 428. Điểm độc đáo
của vị trí này, là phía bên kia biên giới muốn leo lên được mỏm đồi này, phải
vượt qua nhiều vách đá dựng đứng. Nhưng bên đất K thì thoải hơn có thể leo lên
nhờ các rễ bám của cây ngũ gia bì vào các khe đá. Hướng bắc mỏm đồi nhìn về đất
Thái rất rõ do độ cao của nó.
Sau
khi chọn xong vị trí, trinh sát cài lại khoảng hơn mười trái mìn KP2 quanh khu
vực, đánh dấu các vị trí có mìn và quay lại tìm đường xuống, vì từ đỉnh đồi và
yên ngựa có một độ vênh khá lớn. Để đảm bảo cho việc di chuyển sau này bắt buộc
chúng ta phải chọn ra một con đường lên xuống phù hợp, có thể vận động được và
điều cực kì quan trọng là yếu tố bí mật, làm sao cho địch khó phát hiện.
Vị
trí cơ động được chọn ở phía tây của mỏm đồi, hơi lệch về bên kia biên giới một
chút, độ dốc thoai thoải dễ đi, và chỉ có một vách đứng không nguy hiểm lắm (sau
này ta làm thang tre lồ ô bám vào vách để lên xuống).
Trên
đường trở về ta xóa mọi dấu vết, không để cho địch phát hiện. Đội hình vẫn men
theo các bình độ và trở về khu vực d bộ d2.
Sau
nhiều ngày bàn thảo và được e95 chấp thuận, ta bố trí một khẩu DKZ 75 với cơ số
ban đầu năm mươi viên đạn, một tổ trinh sát có trang bị ống nhòm loại tốt để
theo dõi tình hình. Từ vị trí này ta đã khống chế mức độ tập kích bằng cối của
địch vào các vị trí của d2, tạo điều kiện cho các bước “đột phá” sau này của đội
hình e95. Thuận lợi cho tác chiến, nhưng về mặt bảo đảm hậu cần, sự chi viện
cho đài quan sát khi cần thiết, quả là nan giải khi chỉ có mười lăm con người
trên một chốt tiền tiêu nóng bỏng nhất, của những tháng cuối mùa mưa năm 1980 đầu
mùa khô 1981.
TRÊN ĐÀI QUAN SÁT D2
Mục
đích ban đầu của việc lập đài quan sát không phải là “quan sát” thuần túy vì việc
nắm tình