
Khuôn mặt vốn già nua của Thái hậu tức thì trở nên tái nhợt như những bông hoa đã úa tàn trên hồ Thái Dịch, Huyền Lăng thấy thế liền gằn giọng quát: “Sao nàng lại có thể ăn nói càn rỡ với mẫu hậu như thế được?”
Hoàng hậu khẽ nở một nụ cười mỉm với Huyền Lăng, trong đôi mắt đen láy đã chẳng còn ánh hào quang rực rỡ của ngày nào, chỉ còn lại một sự trống trải và tuyệt vọng vô cùng vô tận, rồi nàng ta lẩm bẩm nói: “Càn là trời, khôn là đất, càn khôn phải hòa hợp thì thế sự mới được yên vui. Cổ nhân cũng từng nói cần tề gia trước rồi mới nên trị quốc, gia hòa vạn sự hưng, vậy mà giờ đây hậu cung lại lâu ngày thiếu người cầm trịch, thực chẳng phải là điều hay. Ngẫm thấy Nhàn Quý phi Chu thị xuất thân danh môn, đức hạnh kiêm đủ, lại từng hầu hạ trẫm nhiều năm, biết kính cẩn với bề trên, khoan hòa với kẻ dưới, chính là tấm gương cho tất thảy phi tần noi theo, nay vâng theo mệnh lệnh của Hoàng thái hậu, ban cho kim sách, kim bảo để cai quản hậu cung, chính thức lập làm hoàng hậu. Ơn này trời bể, thực là to lớn chẳng kể gì bằng, nhớ nên trân trọng. Khâm thử!”
Đây chính là chiếu thư lập hậu của nàng ta năm xưa, từng câu từng chữ đều được đổi bằng máu tươi và tính mạng, do đó đến giờ nàng ta vẫn thuộc làu, chẳng quên nửa chữ.
Thái hậu coi như không nghe thấy, chỉ bình thản nhìn qua phía Huyền Lăng. “Hoàng thượng, vẫn còn thiếu một con dấu nữa, vậy tức là vẫn chưa phế hậu rồi.”
Huyền Lăng bất giác trầm mặt. “Mẫu hậu, tội của Chu thị quyết không thể tha, nhi thần không thể không phế bỏ ngôi hậu của nàng ta để an ủi vong linh Uyển Uyển nơi chín suối. Mong mẫu hậu đừng nên ngăn cản.”
Thái hậu khẽ mỉm cười. “Không ngờ con lại biết rào trước đón sau như thế đấy. Được rồi, con muốn ai gia không ngăn cản thì ai gia sẽ không ngăn cản, ai gia tới đây giữa đêm khuya thế này chỉ bởi vì đột ngột nhớ lại chuyện năm xưa, do đó muốn nói cho con biết thôi.”
Huyền Lăng lộ rõ vẻ nghiêm túc. “Dạ.”
Thái hậu đưa tay vuốt ve bờ vai Huyền Lăng vẻ hiền từ. “Tấm lòng của con với A Nhu ai gia biết rất rõ, lời mà nó từng nói chắc hẳn con vẫn chưa quên, do đó, ai gia chỉ muốn nhắc nhở con một chút thôi.” Thái hậu khẽ ho một tiếng, cất giọng trầm thấp: “Trước khi từ trần, A Nhu đã từng cầu xin con một việc, con có còn nhớ không?”
Huyền Lăng toàn thân chấn động, vừa kinh hãi vừa ngẩn ngơ, nhưng rất nhanh sau đó sắc mặt đã dần bình tĩnh trở lại, hờ hững nói: “Nhi thần không ngày nào dám quên, nhưng tội ác của Chu thị quả thực không thể tha thứ được.”
Một làn gió lạnh chợt nhè nhẹ thổi vào qua ô cửa sổ, mang theo mùi ẩm mốc của cỏ cây đã bị ngấm nước mưa lâu ngày, nhanh chóng luồn lách khắp nơi. Ngọn nến trên chiếc đế đồng cháy đã lâu rồi, tim nến trở nên cong queo đen đúa, ngay đến ánh sáng tỏa ra cũng yếu hẳn đi, không ngừng nhảy nhót trong chiếc chụp đèn. Giữa làn ánh sáng lờ mờ yếu ớt ấy, quang cảnh trong điện trở nên hết sức mơ hồ, gần như chẳng thứ gì có thể nhìn thấy rõ.
Thái hậu hờ hững nói: “Ai gia chỉ hỏi con thôi.”
Huyền Lăng cố gắng kìm nén nỗi oán hận và giận dữ trong cổ họng, trầm giọng nói: “Khi đó Uyển Uyển chỉ còn thoi thóp một hơi thở, nàng ấy đã nắm lấy tay con mà cất lời thỉnh cầu.” Y nhắm hai mắt lại, nói ra rành rọt từng chữ một: “Thiếp mệnh bạc, không thể sống với tứ lang tới lúc đầu bạc răng long, ngay đến con của chúng ta cũng không giữ được. Thiếp chỉ có một người muội muội là Nghi Tu thôi, xin tứ lang sau này bất kể thế nào cũng phải đối tốt với muội ấy, đừng ghét bỏ muội ấy!”
Tứ lang! Tứ lang! Thì ra năm xưa nàng ta cũng từng âu yếm gọi y như thế!
Tiếng thở dài của Thái hậu như một nắm đấm nện vào trái tim tôi, bà ta hờ hững nói: “Con đã chính miệng đồng ý với A Nhu rồi, tuyệt đối không bao giờ ghét bỏ Nghi Tu!”
Huyền Lăng phẫn nộ kêu lên: “Mẫu hậu!”
“Hoàng thượng!” Thái hậu ngăn cơn giận dữ của Huyền Lăng lại. “Nếu con bất chấp lời hứa với A Nhu, ngay cả di ngôn của nó cũng chẳng chịu nghe theo, sau này xuống suối vàng, con còn mặt mũi nào để gặp lại nó nữa?”
Huyền Lăng tỏ ra vô cùng đau đớn không cách nào kìm nén được. Thái hậu nhìn y vẻ thương xót, thế nhưng giọng nói lại không hề nhân nhượng: “Con bây giờ ghét bỏ Nghi Tu, đến tên của nó cũng không chịu gọi, câu nào câu nấy đều gọi nó là Chu thị, nhưng con chớ quên A Nhu cũng là Chu thị, và mẫu hậu của con cũng là Chu thị đấy. Ai gia chỉ nói với con một câu này thôi, nhà họ Chu không thể xuất hiện phế hậu được.”
Rồi bà ta lạnh lùng đưa mắt liếc qua phía tôi và Hồ Uẩn Dung. “Hai người các ngươi tốt nhất cũng hãy nhớ lấy điều này.”
Tôi lẳng lặng cúi đầu, thản nhiên cất tiếng đáp: “Dạ!”
Thái hậu không để ý đến tôi nữa, dịu dàng khuyên nhủ Huyền Lăng: “A Nhu vốn thông minh rất mực, mà con người ta trước khi chết lòng thường sáng suốt vô cùng, những việc Nghi Tu đã làm nó chưa chắc đã không biết, cho nên mới phải khổ sở van nài con như vậy. Những việc Nghi Tu đã làm ai gia cũng không thể dung thứ được, lần này ai gia khuyên con chỉ là vì hy vọng sau này con còn có thể gặp lại A Nhu dưới suối vàng. Nhà họ Chu của Nghi Tu cũng là nhà họ Chu của A Nhu, mong c