
, ép phải chết chính là cách nói khác của chếtoan, giống như Chu Tử viết: “Là những người chết vì tai hoạ bất ngờ,hoặc chết đuối, hoặc bị giết, hoặc bị bạo bệnh mà chết…” Bởi vì chết đột ngột, tinh hồn của người đó chưa tiêu hao hết, nên mới có thể quấy rối, đây chính là những gì Tử Sản muốn nói: “Bách tính bình thường khôngbệnh mà chết, hồn phách của họ vẫn có thể mượn cơ thể của người sống đểtác oai tác quái.” Còn Bá Hữu, ông ta không những bị “ép phải chết” màcòn không phải “bách tính bình thường”, bản thân ông ta trước khi sinhra đã được thừa hưởng khối tinh khí lớn, đồng thời tố chất quý tộc tương đối mạnh được di truyền từ tổ tiên, như vậy, tinh hồn của ông ta mạnhmẽ hơn tinh hồn của đám dân đen chỉ ăn rau dưa rất nhiều. Vì vậy, ông ta không chỉ có thể quấy rối mọi người sau khi chết, mà còn có thể quấyrối sau khi chết tới bảy, tám năm. Đương nhiên nói chính xác là, cho dùBá Hữu có một tinh hồn khoẻ mạnh thế nào thì cũng có lúc tiêu hao hếttinh lực, không thể tác oai tác quái mãi, cuối cùng vẫn là “hư không”.
Câu nói có liên quan đến vấn đề này tương đối rõ ràng chính là câu nói tiếp theo của Tử Sản: “Con người khi mới chỉ là phôi thai thì gọi là“phách”.” Nếu đã có “phách” rồi, những thứ do dương khí tạo thành thìgọi là “hồn”. Những hồn phách nhiều tinh khí, hưởng thụ nhiều thì sẽ trở nên mạnh mẽ, vì vậy mới có trường hợp từ hồn phách phát triển thànhthần linh. Ở đây phân biệt rất rõ mối quan hệ giữa hồn và phách, nhưngngôn từ đơn giản ý nghĩa chưa rõ ràng, vì vậy phải đọc những lời giảithích của Khổng Dĩnh Đạt[11'> đưa ra dưới đây:
Con người coi ngũthường là lẽ sống, âm dương là linh hồn, vật chất là thân thể, hình hàilà danh tự; có hơi thở là động, ăn uống là khí. Hình khí hợp lại, trílực từ đó thêm mạnh, trở thành con người. Bản thân “phách” có dương khí, khí là thần, danh là hồn, hồn phách là danh xưng của thần linh, vốn từhình khí mà ra. Linh hồn của hình là phách, linh hồn của khí là hồn.Linh của hình khí mới sinh, tai mắt, tâm thức, tay chân vận động. Thầncủa khí, tinh thần tính thức, dần dần có tri giác. Phách sinh trước, hồn sinh sau, vì vậy nên gọi là “sinh phách, dương hồn”.
[11'> Khổng Dĩnh Đạt: học giả thời Đường Thái Tông.
Trong phần giải thích trên, ngoài hồn, phách, còn nói đến hai khái niệm songsong là hình khí và linh thần, quan hệ giữa chúng có thể được giải thích như sau:
Người sống là do hai bộ phận thịt và linh tạo thành,thịt là hình của con người và khí trong hình, linh chính là hồn vàphách. Mà hình, khí và hồn, phách lại đối ứng với nhau. Hình và khíkhông giống nhau, do đó hồn và phách cũng có điểm khác biệt. Đi kèm vớilinh của hình là phách, đi kèm với thần của khí là hồn. (Ý nghĩa củathần và linh là giống nhau, chẳng qua là cách dùng xen kẽ trong vănviết.) Con người khi mới sinh ra, tay chân có thể cử động, ngũ quan cóthể nghe nhìn, tương ứng với những giác quan này chính là phách, pháchgiúp những giác quan đó có thể hoạt động bình thường. Song, cùng với sựtrưởng thành của con người, từ tri giác cảm tính phát triển lên nhậnthức lý tính, không chỉ vận động, nghe nhìn, mà còn có tình cảm, tưduy,… đó chính là công dụng của khí, và tương ứng với thần của khí chính là hồn. Hồn giúp con người có tình cảm và biết tư duy. Hình, khí vàhồn, phách đối lập nhau, hình, khí là âm, hồn, phách là dương. Nhưnghình, khí đối lập, tức là hình lại là âm, khí lại là dương. Hồn, pháchđối lập, tức là hồn là dương, phách là âm. Đây chính là ý: “Con ngườikhi mới chỉ là phôi thai thì gọi là phách.” Sau khi phách xuất hiện thìphần dương là hồn, còn phách là phần âm.
Vậy thì thể, khí, hồn,phách đó đến từ đâu và “kết hợp” thế nào để thành một “con người”? Đa số những triết gia đầu tiên đều cho rằng: “Thuận theo tự nhiên.”
Quản Tử, Nội nghiệp viết: “Phàm nhân chi sinh dã, thiên xuất kỳ tinh, địaxuất kỳ hình, hợp thử dĩ vi nhân.”[12'> Chuẩn Nam Tử, Chú Thuật Huấnviết: “Thiên khí là hồn, địa khí là phách.” Thật ra, khí giữa thiên(trời) và địa (đất) kết tụ lại rồi sinh ra không chỉ con người, mà còncó chúng sinh vạn vật giữa trời đất. Do đó, Lễ ký, Nhạc ký[13'> nói: “Địa khí thượng tế, thiên khí hạ giáng, âm dương tương ma, thiên địa tươngđãng, cổ chi di lôi đình, phấn chi dĩ phong vũ, động chi dĩ tứ thời,noãn chi dĩ nhật ngyệt, nhi bách hoá hứng yên”[14'>
[12'> Sinh mạng của con người, tinh khí là do trời ban tặng, hình thể là do đất bantặng, hai thứ đó kết hợp với nhau thành người.
[13'> ‘Lễ ký’: haycòn gọi là ‘Kinh Lễ’, một quyển trong bộ ‘Ngũ kinh’ của Khổng Tử, ‘Nhạcký’ là một trong những thiên của ‘Kinh Lễ’.
[14'> Có nghĩa là: địa khí thăng, thiên khí giáng, âm dương giao hoà, đất trời tương thông,sấm chớp chấn động vạn vật, mưa gió thấm nhuần vạn vật, vạn vật sinhtrưởng suốt bốn mùa, cần không khí ấm áp của nhật nguyệt, như vậy trờiđất mới yên bình.
Chủ nghĩa duy vật này đã được các nhà thần tiên học đời sau phát triển, những người thành tiên, thành thần, thành tinh, thành quái… đó là do hấp thụ tinh khí của thiên địa, nhật nguyệt.
Chính vì thiên khí là hồn, địa khí là phách nên con người sau khi c