
g của châu huyệnkhông thể quản lý hết được, những vong hồn ở làng xã bị nhốt trong miếuthổ địa của chính làng xã đấy. Một câu chuyện trong quyển năm thuộc Hữuđài tiên quán bút ký do Du Việt người đời Thanh viết: “Người ở trấnĐường Tây tên Trương Khánh Tôn, vì muốn tránh nạn quân Thái Bình, chạyđến đất Thịnh Trạch, Không may ốm chết nơi đất khách quê người, linh hồn của anh ta cũng được đưa đến miếu thổ địa của Thịnh Trạch. Nhưng thổđịa của Thịnh Trạch lại cho rằng anh ta không phải người ở đây nên phảibị giam giữ ở miếu thổ địa tại quê gốc, thế là lại đưa trả linh hồn anhta về Đường Tây.” Không ngờ quy tắc ở thế giới âm ti mà cũng nghiêm ngặt như thế.
[16'> Đại lý tự: giống như toà án thời nay.
Trong cuốn Phong tục tập quán trên khắp đất nước Trung Hoa do Hồ Phác Anviết, có ghi lại tang lễ của Cao Bưu ở Giang Tô như sau: “Người khi mớichết, người nhà phải dùng chiếu được tết bằng cây sậy, bằng rơm khoanhtròn bên cạnh miếu thổ địa của làng, làm nơi nương náu cho linh hồnngười chết. Nam bên trái, nữ bên phải, gọi là “trải chỗ”. Sau khi trảichỗ, người nhà hằng ngày phải chuẩn bị hai bữa cơm, hai món, mang đếnđặt ở nơi cư ngụ của quỷ, gọi là đưa cơm. Đêm cho vào áo quan, mời nhàsư cho ma đói ăn, người nhà mang kiệu giấy, thuyền giấy, ngựa giấy đặtvào giữa miếu thổ địa, lên tiếng cầu xin thần thổ địa tạm thả ngườichết. Mời hồn của người chết theo họ về nhà, như thế gọi là “triệu hồnvề xem kịch”.”
Vong hồn bị giam giữ ở miếu thổ địa với thân phậnkẻ bị tình nghi, quan niệm người chết tức là tội phạm của âm phủ ở thờiMinh – Thanh đã thâm căn cố đế như vậy rồi.
Những câu chuyện xung quanh vấn đề “ba hồn” không ít, cũng muôn hình muôn dạng, kỳ lạ đủđiều. Lấy vài ví dụ để minh chứng. Ví dụ thứ nhất, trong chuyện Lươngthị tân phụ[17'> trong quyển ba Thôi Trượng viết: “Một dân tộc ở HàngChâu, khi cô dâu mới bước qua cửa, tay phải cầm bình ngọc, bên trongđựng năm loại ngũ cốc, sau khi đến nhà chồng, lập tức giao cho người nhà chồng, cho bình ngọc vào trong tủ thóc. Nhà họ Lương cưới dâu, khingười con dâu mới tay cầm bình ngọc đi qua cửa, người giữ cửa đòi bao lì xì, kết quà đã xảy ra tranh cãi với bên đến đón dâu. Cô dâu mới ngồitrên kiệu sợ hãi vô cùng, khi về đến nhà chồng, tâm tư hỗn loạn nhưngười mất hồn. Thầy cúng được mời đến, cho cô ta uống nước bùa chú, lúcấy tinh thần mới có chút ổn định, nói: “Tôi có ba hồn, một hồn bị thấtlạc bên ngoài cửa thành, một hồn thất lạc trong bình ngọc, cần phảitriệu hai hồn ở hai nơi đó về.” Sau khi làm theo lời cô ta, cô dâu mớinhà họ Lương mới trở lại trạng thái bình thường.” Người gác cửa có thểdọa cho ba hồn của người qua cửa sợ tới mức bỏ chạy tứ tán khắp nơi,khiến một hồn phải lẩn vào trong bình ngọc để trốn, điều đó cho thấy uyphong của người đó hùng mạnh không kém gì thời nay.
[17'> Cô dâu mới nhà họ Lương.
Ví dụ tiếp theo lấy từ hồi thứ nhất trong Tục Kim Bình Mai của Đinh DiệuCang, người đầu thời Thanh, trong đó viết: “Con người có ba hồn bảyphách, khi còn sống thì tam thi thất tình, đến khi phách tán thân vong,ba hồn kia chính là ba con ma, một con đến âm ti chịu phạt, một con ởlại dương thế chờ hoá kiếp, còn một con ở lại bên cạnh mộ giữ xác chết,chịu mưa gió, không được rời đi, thậm chí còn bị coi là quấn chân.[18'>
[18'> Đinh Diệu Cang nói ba hồn tức là tam thi, sống thì là tam thi, chết thì là ba hồn, có quan hệ mật thiết với nội dung của quyển tám mươi mốt‘Tam Thi Trung kinh’ trong ‘Vân Cấp Thất Thiêm. Tam Thi Trung kinh’ viết rằng: hình dạng của tam thi như trẻ con hoặc là như hình con ngựa, đềucó lông dài hai tấc, sống trong con người. Khi con người chết đi, trụcxuất ra thành ma, hình dạng giống như con người đó, quần áo ngắn dàicũng giống hệt giống như truyền thuyết nhân gian lưu truyền chuyện sinhhồn hoá thành hồn ma. Vì vậy, thuyết tam thi có thể là do tưởng tượng từ thuyết sinh hồn mà ra, không phải không có căn cứ.
Người sau khi chết, ba hồn phân tán đi ba nơi, trở thành ba con ma, suy nghĩ kỳ quặcnày nhìn tưởng là vớ vẩn, linh tinh, thực ra chứa đựng hàm ý sâu sắc.Thử nhìn những hiếu tử hiền tôn trên thế gian này xem, đốt hương thờcúng, một là vì muốn tổ tiên đã khuất sớm được rửa sạch tội lỗi, như thế chẳng phải ở địa ngục có một con ma sao? Hai là cầu chúc cho tổ tôngđược đầu thai vào gia đình giàu có, như thế chẳng phải chỉ là một hồn ma thôi sao? Ngoài hai điều cầu khấn ở trên kia ra, năm hết Tết đến đềuđốt tiền vàng mã dâng cúng, xem ra trong mộ cũng có một hồn ma ở đó đểhưởng lộc thụ hương hoa.
Hồi thứ mười ba trong Hồ lô giấm của tác giả Phục Thư, Giáo chủ đời Thanh cũng có những suy nghĩ tương đồng với thuyết này:
Địa Táng Bồ Tát nói: “… Nhưng lão nạp lại có một suy nghĩ thế này: Ba Tư Sư toàn thân giáng phàm, rơi trong sợ hãi, chỉ ra một hồn trong ba hồn hoá kiếp thành người, hai hồn còn lại cầu xin đại vương phục hồi nguyêndạng, tạm thời lưu lại địa phủ, quanh quẩn bên lão nạp nhiều năm, giúpviệc cứu tế, để quên đi nỗi nhớ trần gian. Đợi tới khi hồn ở dương thếchuyển đến, sau đó tập hợp ba hồn, đi về Tây phương, thế chẳng phải cảcông tư đều vẹn