XtGem Forum catalog
Tắt đèn kể chuyện ma

Tắt đèn kể chuyện ma

Tác giả: Loan Bảo Quần

Thể loại: Truyện ma

Lượt xem: 327965

Bình chọn: 8.5.00/10/796 lượt.

òn dùng để chỉ nước Nhật.

[2'> Quyển bốn trong ‘Động linh tụ chí’ của Quách Tắc có viết về một viênquan về hưu, ẩn cư tại gia, tu học đạo thuật, ngày ngày ngồi thiền. Saumột thời gian dài, chốt cửa của nguyên khí dần nới lỏng, một đứa bé chui ra nhưng chỉ có thể bay lượn trong phòng. Một ngày nọ, bị tiếng mèo kêu bắt chuột làm cho thất kinh, không thể quay lại thể xác, rồi dần tanbiến. Lại có một người tên Uông Sinh, cuối đời rồi vẫn chưa lấy vợ, chỉchuyên tâm luyện đạo. Trong lúc ngồi thiền, một đứa bé đẩy cửa bước ra,ngồi trên cửa sổ, chỉ lởn vởn trên nóc nhà, đến trưa xuống khỏi mái nhà, theo đường cửa sổ lần vào cửa, nhà người đó có người hầu mới, truyềngọi cơm trưa, tiếng hơi to một chút, đứa bé thất kinh, quay lại mái nhàquên đường về, một thời gian sau hoá thành làn khói bay khắp nơi, vàUông Sinh chết. Gọi hồn ở chương nàycó ý nghĩa trái ngược với gọi hồn ở chương trước. Khái niệm về gọi hồn ở chương trước là một kiểu tà pháp của vu thuật (trò phù thuỷ), gọi hồncủa người sống ra khỏi thể xác của họ, còn khái niệm gọi hồn ở chươngnày là gọi những linh hồn bị mất, bị lạc đường quay về, ngoài cách gọilà “gọi hồn” ra, người địa phương còn có những cách gọi khác như hoánhồn, chiêu hồn, thu hồn, bắt hồn, cướp hồn, khiêu mao sơn[1'>,… Công dụng của hai loại gọi hồn này tương phản nhau, nhưng về bản chất thì khôngcó gì khác biệt, cùng dùng vu thuật để thu hồi linh hồn con người.

[1'> Chỉ hoạt động nhảy múa của đạo sĩ để trừ ta ma…

Về mặt lịch sử, thuật chiêu hồn đã sớm xuất hiện trong Tang đại ký của Lễký kinh điển của Nho gia, còn cả trong “chiêu hồn” được cho là truyềnthuyết của Tống Ngọc trong Sở Từ mà chúng ta đều rất quen thuộc, nhưngtruy ngược lại thời gian thì có lẽ thuật này còn xuất hiện xa xưa hơnnữa, không chỉ là một trong những tiết mục trong tang lễ. Cái gọi là“chiêu hồn, phục hồn” chính là chiêu hồi những linh hồn đã thoát khỏithể xác, tương hợp với phách lúc này vẫn còn ở trong cơ thể, mục đíchcuối cùng là giúp con người hồi sinh, đó chính là ý nghĩa chủ yếu khi sử dụng thuật này của tổ tiên. Còn với vu thuật nguyên thuỷ, thực ra cũnglà một trong những loại y thuật nguyên thuỷ, thuật chiêu hồn được dùngrộng rãi khi có người bị ngất, mê loạn, mắc bệnh hiểm nghèo, chết lâmsàng,… được coi là ở vào tình trạng mất hồn. Người chết là người khôngthể chiêu hồn về được, nhưng những người chiêu được hồn về thì có thểkhông chết. Đạo lý này cũng giống như cách tuyên truyền “chỉ có thể chữa bệnh, không thể làm người chết sống lại” trong những bệnh viện hiện đại nhất.

Vì vậy, thuật chiêu hồn và tục chiêu hồn vẫn được lưutruyền cho tới ngày nay, còn những người chết vì không thể chiêu hồn kia được các nhà Nho biến thành một trong những trình tự trong tang lễ,nhưng đó không còn là chiêu hồn phục sinh nữa mà là chiêu hồn nhập tangrồi.

Những gì được ghi chép trong sách Nho được coi là khái niệm“phục” trong tang lễ, tức là chiêu hồn để hồn quay lại với phách: “Khítuyệt tắc khốc, khốc nhi phục, phúc nhi bất tô, khả dĩ vi tử sự.” Về mặt ý nghĩa, ban đầu cũng là chiêu hồn để cứu sinh, người không còn khí nữa thì khóc gọi, khóc gọi mà hồn không quay lại thì dùng thuật chiêu hồnđể gọi hồn về với phách, nếu dùng thuật chiêu hồn mà người vẫn khôngsống lại, lúc ấy có thể cử hành tang lễ. Cách chiêu hồn trong tang lễnày, từ cổ tới kim chưa thấy có một ngoại lệ nào, nhờ đó mà sống dậy,còn đối với cách chiêu hồn của các thầy phù thuỷ, thì tỷ lệ thành côngtương đối cao. Điều này rất đơn giản, một người là người chết, một người là người bệnh, cũng giống như bây giờ chúng ta đều biết nên đưa ngườinào tới bệnh viện còn người nào vào nhà tang lễ vậy. Mặc dù cách mà họchiêu hồn không khác nhau nhiều, đều cầm quần áo, vật dụng cũ của ngườimất hồn (hoặc mới chết/ chết lâm sàng) trèo lên nóc nhà vái tứ phương,hô gọi, nhưng trong Nho gia lại coi đó là “lễ”, trở thành “văn hoá cầncó” trong quá trình cử hành tang lễ, không phát triển gì thêm, còn cáchcủa các thầy phù thuỷ mặc dù bị coi là mê tín dị đoan, nhưng lại có quan hệ “sống còn” với dân chúng, so sánh hai thứ, rõ ràng là có sức sốnglâu hơn, thậm chí còn lôi cả hoà thượng và đạo sĩ vào, sinh ra rất nhiều dạng, kiểu khác nhau. Đương nhiên, trong những điểm mấu chốt, nhữngthuật này với vu thuật thời xưa không có gì khác.

Cách gọi hồnthông thường nhất là gọi hồn của trẻ con. Không biết bây giờ thế nào,tôi chỉ biết vào nửa thế kỷ trước, vẫn thường thấy hiện tượng này ởthành phố. Trẻ con phát sốt, hôn mê bất tỉnh, cách đơn giản nhất làngười mẹ ôm con, xoa xoa đầu, gọi tên ở nhà: “Con yêu mau quay về” hayđại loại thế. Nếu thấy không có hiệu quả thì nên dùng những thủ đoạn hơi mang tính vu thuật. Và thuật thu hồn ở các địa phương không giống nhau, có những điểm đặc sắc riêng. Trong quyển hai, Thu hồn của Dực Quynh bại biên, Thanh Dụng người đời Thanh có viết:

Bình thường khi gặpcảnh con trẻ bị hoảng hốt, giữa đêm ngủ không an giấc, lập tức cho áocủa đứa trẻ đó vào trong cái đấu, sau khi thắp hương cúng khấn trên bànthờ xong, một người ôm cái đấu gọi tên của đứa trẻ, một người đáp l