
hế nào.
- Đổ sâm cho ông ta!
Lúc này ta mới ngửi thấy mùi đăng đắng của loại sâm hảo hạng bay ra từ cái
bát trên tay Giáp Con. Ta thật sự cảm phục sự tinh vi của Triệu Giáp
trong công việc. Trong cảnh nhốn nháo sau khi hành hình, lão vẫn nhớ sắc nước sâm. Có lẽ lão đã chuẩn bị từ trước? Lão tính toán đâu ra đấy,
lường trước cả những việc sẽ xảy ra.
Giáp Con nhích lên một
bước, một tay bê bát, tay kia cầm thìa múc từng thìa nước sâm đổ vào
miệng Tôn Bính. Khi thìa chạm môi, Tôn Bính đã vội há miệng, y hệt chó
con chưa mở mắt chạm vào bú mẹ. Giáp Con run tay, nước sâm rớt ra cằm –
nơi từng có bộ râu đẹp, Triệu Giáp không bằng lòng:
- Cẩn thận nào!
Nhưng Giáp Con là dân đồ tể, vai u thịt bắp, không làm bước những công việc
đòi hỏi khéo chân khéo tay. Thìa thứ hai đã rớt quá nửa xuống ngực.
- Con làm sao thế? – Triệu Giáp tiếc chỗ nước sâm, chuyển đèn cho Giáp Con, nói – Để ta!
Không đợi Giáp Con chuyển bát nước sâm cho bố, Mi Nương đã bước tới giằng lấy cái bát. Nàng dịu dàng bảo bố đẻ:
- Cha ơi, cha mắc tội tày đình nên mới nông nỗi này! Cha uống một chút là dễ chịu ngay…
Ta thấy Mi Nương nước mắt chạy quanh.
Triệu Giáp giơ cao đèn lồng, Giáp Con nâng cằm Tôn Bính lên, Mi Nương múc
từng thìa nhỏ nước sâm đổ vào miệng ông. Ông uống hết, không rớt ra
ngoài chút nào.
Ta quên bẵng nhịêm vụ canh chừng tội phạm, tưởng như đang chứng kiến cảnh chăm sóc người ốm trong một gia đình.
Uống hết bát nước sâm, Tôn Bính khá lên rõ rệt. Tiếng thở không nặng nữa, cổ đã đỡ nổi đầu, miệng không tiếp tục thổ huyết, mặt cũng bớt sưng. Mi
Nương đưa trả cái bát cho Giáp Con, tự tay cởi trói cho bố đẻ, vừa cởi
vừa dỗ:
- Cha đừng sợ, con sẽ đưa cha về nhà.
Đầu ta
trống rỗng, nhất thời không biết xử trí ra sao. Chỉ Triệu Giáp là tỉnh.
Lão đưa đèn cho Giáp Con, đứng án ngữ trước mặt Mi Nương, cười khẩy,
bảo:
- Dâu thảo của ta, hãy tỉnh mộng! Đây là trọng phạm của triều đình, tha lão là bị giết cả chín họ!
Mi Nương huơ tay trước mặt Triệu Giáp, rồi lại huơ tay trước mặt ta, quì
xuống lạy, buột miệng kêu mà như ca điệu Bi của Miêu Xoang.
- Tha cho cha tui… Tui van các người, hãy tha cho cha tui…
Ta trông thấy, dưới ánh trăng lồng lộng, tất cả dân chúng phía dưới nhất
loạt quì xuống, tiếng gào thì có thể pha tạp, nhưng câu chữ thì là một:
- Tha cho ông ấy… Tha cho ông ấy… Nếu coi cuộc đời mỗi người là một bài văn, và những chặng đường đời là
những câu văn, thì những quyết định trong đời cũng giống như những dấu
câu…
Cuộc đời mỗi người bắt đầu từ một dấu chấm hỏi.
Số phận đặt ra nhiệm vụ cho con người phải giải mã dấu hỏi chấm bằng những sự lựa chọn.
Nhưng cuộc sống lại yêu cầu ở con người nhiều hơn là những sự chọn lựa…
Mỗi người phải tự tìm cho mình một cách sống riêng để cuộc đời mình kết thúc bằng một dấu chấm.
Nhưng không phải ai cũng có thể đặt cho mình một dấu chấm.
Không ai có thể viết hộ bài văn cho người khác. Mỗi người chúng ta đều đang
tự viết nên bài văn về cuộc đời mình bằng những dấu câu. Dấu chấm hỏi,
dấu chấm lửng, dấu chấm phẩy…, và cả những hệ quả đằng sau những dấu suy ra…
Những dấu ba chấm…như là những khoảng lặng…
Sẽ có đôi khi sự mỏi mệt khiến người ta không còn muốn viết tiếp những
trang viết của đời mình. Nếu buông rơi cây bút, đơn giản là bài văn về
cuộc đời bạn sẽ vĩnh viễn dang dở. Không ai muốn đọc một bài văn dang
dở. Một bài văn dang dở là một bài văn vô nghĩa.
Còn bạn, bạn sẽ kết thúc bài văn của mình bằng dấu câu nào?
Dấu chấm hỏi, dấu chấm lửng, một dấu chấm…
Hay là… một dấu chấm than?
Theo hướng Lưu Phác ra hiệu bằng miệng, ta nhìn thấy phía khán đài trước mặt có người đám người quần áo sặc sỡ, hình dung cổ quái. Người mặt
trắng môi son, người mặt đỏ tai to; người trán xanh mắt vàng, người mặt
đen như trôn chảo. Ta giật mình, nhớ lại đội quân cách đây không lâu của Tôn Bính, chẳng lẽ họ tụ tập trở lại, kéo về huyện thành? Mồ hơi ướt
đầm, tỉnh hẳn rượu, ta vội vàng chỉnh đốn quần áo mũ mãng, bước tới chỗ
họ.
Đám người này vây quanh một cái hòm to tướng màu đỏ, ngồi
trên hòm là một người đàn ông dùng màu trắng và màu vàng kim vẽ mặt
tượng trưng cho một Nghĩa miêu đại trung đại dũng. Ông ta khoác chiếc áo lông mèo màu đen rộng thùng thình, đội mũ lông mèo hai tai dựng đứng,
chỗ tai nhọn có hai túm lông trắng. Những người khác, người khoác áo
lông mèo, người đội tấm da mèo, ai mấy lặng im, vẻ mặt nghiêm túc, như
sắp đăng đàn biểu diễn. Mặt hòm để rất nhiều đao thương kiếm kích,
Ngù đỏ rực rỡ, liếc qua cũng biết đó là đồ nghề của gánh hát. Thì ra đây là gánh hát Miêu Xoang của vùng Đông Bắc Cao Mật! Chẳng lẽ họ đến đây biểu diễn? Dân vùng Đông Bắc Cao Mật vốn cứng đầu cứng cổ, ta rất thấm thía
điều này. Kịch Miêu Xoang thần bí mà sâu lắng, khi biểu dĩên có thể
khiến hàng vạn người phát cuồng, mất hết lí trí… Nghĩ tới đây, ta lạnh
xương sống, tưởng như trước mắt gươm giáo sáng lòa, ngỡ như bên tai
trống chiên dậy đất. Lưu Phác ghé tai ta nói nhỏ:
- Bẩm ông lớn, tiểu nhân có dự cảm…
- Nói.
- Đàn hương hình là cái mồ