
ắt ông đăm đăm nhìn sững vào ngọn đèn,
đang hiện lên quá khứ xa xăm của người bạn cùng khổ, giữa nơi cuối đất cùng
trời này.
Khi
nghe má nuôi tôi giục ông mời khách ăn cơm, ông mới thong thả đứng dậy. Ông
bước đến bên bức vách rút ra ba mũi tên trong chiếc ống nứa ra, để nằm ngang ở
trên đĩa, đặt lên bàn thờ. Rồi ông rót một chén rượu đặt bên cạnh ở ba mũi tên
thề, và thắp nguyên cả một bao hương cắm vào bát tro.
Tuyệt
nhiên không hề thấy có một nét biến đổi trên sắc mặt ông. Cả một hơi thở mạnh
cũng không nghe thấy...
Tội nghiệp cho hai ông già, ngày nào cũng dắt nhau
ra đi từ trời còn mờ đất, có khi đến tối mịt mới về. Má nuôi tôi lo lắm: Nhưng
bà biết rõ chồng mình hơn ai cả. Khi ông đã quyết một sự gì rồi, thì lời khuyên
can và những giọt nước mắt của bà không thể làm mềm được ý chí của ông Tốt hơn
hết là nên im lặng.
Sau
cái trận phục kích bất ngờ, chết mất tên Việt gian đưa đường lợi hại và một
thằng Pháp, bọn địch phát quang cây cối dọc ngã ba sông có hơn nghìn thước, bắn
chết ba người đàn bà đi thuyền trên sông giữa ban ngày, và yết bảng tại ngã ba
rằng: Ai nộp một cái đầu Việt Minh sẽ được lĩnh một nghìn đồng. Đồng thời chúng
cũng ra sức mua chuộc: mỗi người dân bị chúng ruồng bắt về đồn đắp phòng tuyến
trước khi được thả về đều được phát cho ba thước vải, một số thuốc ký ninh và
hai bao thuốc lá "gô-loa" cùng một cái giấy lách-xê-pát-xê.
Lão
Ba Ngù ở chơi với tía nuôi tôi hơn một tháng mới từ giã trở về Chắc Băng. Không
biết có phải lão buồn vì công lặn lội của mình chẳng đem lại một kết quả gì,
hay bởi con mụ vợ Tư Mắm đã theo thằng quan ba trở ra chợ Rạch Giá - thế là mất
đối tượng chính - nên lão nản lòng bỏ đi chăng. Tía nuôi tôi từ hôm ấy càng đâm
ra ít nói, chẳng thiết gì công việc làm ăn, cứ bỏ nhà đi luôn.
Nhiều
khi cả mấy ngày không về nhà. Có về nhà thì lại thắp hương cắm lên bàn thờ rồi
lại ngồi uống rượu khan một mình.
Một
số người ở xung quanh đồn giặc đã lục tục trở về nhà cũ. Cả ba bốn ngôi quán cà
phê, hủ tiếu cũng vừa dựng lên. Tía nuôi tôi đã mấy lần mò ra quán cà phê, lần nào
cũng trở về với bộ mặt rầu rầu khiến cho thằng Cò và tôi không dám nói chuyện
to tiếng.
Một
hôm, tía nuôi tôi cầm rựa đi đốn ở đâu về mấy gốc tre già. Ông vứt tre xuống
sân, bảo thằng Cò đi mua rượu. Người ông thay đổi hẳn, chân tay nhanh nhẹn, vui
vẻ hoạt bát lên như ngày trước. ông chẻ tre, nắn nót chuốt từng mũi tên, ban
ngày phơi nắng, ban đêm hong lửa ông châm từng mũi tên lên tay, cân xem có vừa
sức nặng và bề dài của ba mũi tên tẩm độc của ông không...
Ba
hôm liền, ngày nào cũng ngậm tẩu thuốc lá, cầm nỏ mang tên, dắt con Luốc di vào
rừng.
"Chẳng
thấy bắt được con chồn con cáo gì, mà ngày nào cũng lặn lội cho mệt!" Má
nuôi tôi làu bàu nói như vậy.
Tía
nuôi tôi chỉ cười. Nụ cười hồn hậu trên gương mặt khoáng đạt mà tôi thấy ở ông
lần đầu tiên nơi xóm chợ Ngã Ba Kênh, lại trở về với ông.
Dứt
khoát không phải tía nuôi tôi đi săn con chồn con cáo gì đâu. Có thể là ông đi
tập bắn nỏ đấy thôi! Mà một người thông thạo nghề rừng nghề biển như ông, thì
việc sử dụng cánh nỏ chỉ như một trò chơi, ông cần gì phải tập. Vậy thì tía
nuôi tôi đi đâu? Làm gì?
Ý
nghĩ ấy cứ nung nấu trong đầu tôi, càng thôi thúc sự tò mò dậy lên trong tôi
rất mãnh liệt. Phải theo coi ông làm gì? Thế là tôi mò vào rừng. Theo dấu chân
ông, tôi đi tìm khắp nơi nhưng không thấy. Đã trở về, bỗng con chó Luốc từ
trong một bụi cây chạy ra xoắn lấy tôi. Tôi vội ôm con chó, vuốt ve cho nó đừng
sủa. Và con Luốc dắt tôi chạy băng qua một khoảng đất lầy, đến một cái bàu
rộng. Tôi gí mõm con chó xuống đất, núp trong một bụi sậy ngó ra bàu. Tía nuôi
tôi cởi trần, đang loay hoay bơi trong một đám rều. Ông nhặt lục bình, rau mác
phủ kín thân người, rồi giương nỏ, chống hai khuỷu tay lên hai khúc bẹ dừa nước
thả giữa đám rều, giữ thăng bằng trên mặt nước, không động đậy. Khi mặt bàu đã
trở lại phẳng lặng, và một cái lá lục bình cũng chẳng thấy còn rung nữa, thì từ
trong đám rều nghe vang ra một "tiếng tách" rất khẽ của cánh nỏ bật
dây. Chiếc tên bay ra, cắm phập vào một bẹ dừa nước cắm ở mấp mé ven bờ, mà đám
rều không mảy may động đậy. Tôi không đếm rõ, nhưng ước chừng sáu bảy chiếc tên
đã cắm đầy bẹ dừa nước, cách mặt nước khoảng một tấc, đều tăm tắp như ta cầm
từng mũi tên và ghim vào vậy. Tôi hãi quá. Vừa hãi vừa kính phục. Muốn gọi tía
nuôi một tiếng. Nhưng sợ ông mắng, tôi len lén dắt con chó đi một quãng mới thả
nó ra và lẳng lặng trở về.
Tôi
không hề lộ ra chút gì tỏ rằng mình biết chuyện tập bắn của ông. Hôm sau, tía
nuôi tôi gọi tôi ra sân bảo khẽ:
-
Con đi với tía ra bốt đi?
Tôi
đoán rằng tía nuôi tôi dắt tôi đi phục kích bắn giặc; ông đã gọi tôi theo, hẳn
là ông tin cậy tôi hơn thằng Cò bụng mừng rơn, tôi nói luôn:
- Tía đưa cho con cái dao găm!
Ông
cười cười, vỗ tay lên đầu tôi:
- Đi chơi thôi mà. Việc gì phải mang dao.
Thấy
tôi đứng ngớ ra, ông cúi mặt khẽ trong tai tôi:
- Hồi trước, con có biết mặt vợ thằng Tư Mắm...
Con đi với tía, coi phải đún