
trôi xuống. Lỡ tía nuôi tôi núp trong một đám rều lưới qua rồi, mà
con gián điệp khốn kiếp chưa ra tắm thì sao? Bây giờ tôi không lo sự nguy hiểm
xảy ra cho tía nuôi tôi, mà chỉ lo con quỷ cái không ra tắm. Mắt tôi lại nhìn
ra cửa đồn. "Nó sẽ ra... Nó sẽ ra... Rồi nó sẽ ra... " Tôi lẩm bẩm
như vậy một chốc thì quả nhiên nó ra thật. Vẫn như chiều hôm qua, nó lại ngửa
đầu ra sau, vén tóc trùm chiếc mũ cao su lên. Nó lại cởi chiếc khăn tắm đặt lên
trụ cầu. Nó đã bắt đầu khởi động rồi kia! Một thằng Tây từ trong đồn đi ra, có
con chó béc-giê to tướng theo sát bên chân. Con gián điệp quay lại cười hắc
hắc, nói lí nhí gì đó trước khi gieo mình lao xuống nước. Hai tay tôi nắm hai
bụi cỏ cứ run lên. Con chó béc-giê sủa oang oang khi thấy một đám rều trôi qua
ngang đồn. Tôi phải vỗ vỗ vào lưng con Luốc, gí mõm nó xuống, không thì nó cứ
chờn vờn chực đứng lên sủa chửi lại con chó xấc xược kia.
Con
gián điệp vẫn bơi lên ngụp xuống chung quanh chỗ cầu nước. Một đám rều nữa lại
trôi tới. Con chó béc giê lại sủa. Nghe rõ cả tiếng thằng giặc suỵt suỵt mắng
con chó. Đám rều thứ ba trôi tới, bé hơn hai đám trước, trôi lờ đờ, coi bộ chậm
chạp. Đúng là tía nuôi tôi đang núp trong đám rều này. Tôi vừa nghĩ như vậy thì
nghe tiếng hét thất thanh của con mụ "vợ Tư Mắm". Nó quẫy đùng đùng
như con cá mắc câu, cánh tay với với bám trụ cầu. Con chó béc-giê chồm chồm
trên cẩu, sủa ra sông dữ dội. Thằng Tây lôi con mụ kia lên cầu, vừa chỉ vừa
hét: "Việt Minh? Việt Minh!"
Con gián điệp còn dốc hết lực giơ cánh tay chỉ
ra đám rều trôi trên sông trước khi ngã xuống giãy đành đạch. Đèn rọi lia như
chổi quét trên sông. khắp bốn phía đồn. Súng đủ các cỡ bắn ra như chấu. Thằng
giặc Pháp cầm khẩu tiểu liên đuổi theo bờ sông, ria xuống đám rều. Đạn đỏ ngời
nẩy trên mặt nước như thia lia. Lại thêm năm sáu thằng ngụy trong đồn cầm súng
tủa ra.
Tôi
bất chấp cả đạn bắn vèo vèo bên tai, xách mác đứng dậy chạy đi. Thằng giặc chạy
bên kia bờ, tôi chạy bên này bờ. Giá tôi có khẩu súng trường trong tay, thì tôi
đã nổ cho nó một phát rồi. Máu dồn lên nóng cả mặt. Tôi che tay lên mồm hô lớn:
"Xung phong! " Con Luốc cũng bắt đầu sủa oang oang, hỗ trợ cho tiếng
hô vang rền của tôi. Thằng giặc Pháp cầm súng đuổi theo đám rều bên kia bờ,
nghe tiếng thét xung phong của tôi vụt co người lại như bị điện giật. Nó quay
lưng tháo chạy về đồn.
Tôi
cứ chạy theo đám rều, gọi: "Tía ơi, tía hời!" mà không nghe tiếng
đáp. Đám rều mỗi lúc một trôi nhanh. Tôi ngồi xuống bờ sông, khóc nấc lên. Hồi
lâu, bỗng nghe tiếng chân đi sột soạt đến gần. Con chó đứng bên tôi ve vẩy
đuôi, lao về phía chân người đi tới.
-
Thằng An đấy hả con? - giọng tía nuôi tôi vọng ra từ trong bóng tối.
Tôi mừng cuống lên, chạy đâm vào người tía nuôi
tôi, làm ông suýt ngã.
-
Tía có sao không, tía? - tôi vừa hỏi vừa đưa tay sờ khắp người ông xem có máu
chảy không.
- Chẳng
việc gì, con ạ. Tía lặn xuống tới đáy sông, làm sao nó bắn trúng được. Con ra
đây bao giờ?
-
Tía đi một lúc thì con đi theo. Con lo quá.
Tôi
cảm thấy bàn tay tía nuôi tôi sờ soạng đặt lên vai tôi và từ trên vai tôi, bàn
tay to lớn ấy dần dần mò xuống nắm chặt bàn tay tôi.
- Cám
ơn con. Tía cám ơn con!
Con
Luốc sấn vào bên chân chúng tôi, vướng không đi được. Tôi co chân tống nó một
cái, nó mới chịu lui ra. Tiếng súng moóc-chê trong đồn bắt đầu bắn ra, nổ ầm ầm
vào những khu rừng chìm kín trong đêm. Nghe tiếng súng bắn nhiều chừng nào, tôi
càng khoái chừng nấy.
-Vì
thù mà phải báo, chứ tía đâu màng tới chuyện giết một con đàn bà!
Đột
nhiên, tôi bỗng có cảm giác như mình đang nghe câu nói ấy vẳng ra từ một câu
chuyện cổ xa xưa nào.
Chỉ trong vòng không đầy hai tháng, mà đã có hai
tên Việt gian gián điệp lợi hại và một thằng Pháp bỏ mạng vì tên tẩm thuốc độc.
Thứ vũ khí thô sơ thời Trung cổ, lặng lẽ từ trong cành xanh phóng ra, đem lại
cái chết bất thình lình không phương cứu chữa - sự việc ấy đã gieo vào đầu óc
bọn giặc đang cầm những khẩu súng hiện đại trong tay một nỗi khiếp đảm khôn lường.
Càng sợ, chúng càng lồng lộn lên một cách dữ dội để tự trấn tĩnh và động viên
tinh thần bọn ngụy. Chúng đưa thêm tới ba tiểu đoàn, mở những cuộc càn quét báo
thù liên miên khắp các vùng rừng chung quanh. Những ngôi lều của thợ đốn củi ở
tít mãi trong rừng sâu cũng bị chúng mò tới đốt trụi. Chúng bắt dân phải dỡ nhà
về ở chung quanh đồn để làm vòng rào người, và đóng thêm bốn lô-cốt ở mấy nơi
hiểm yếu dọc bờ sông. Ngôi lều của tía nuôi tôi cũng đã làm mồi cho ngọn lửa
của giặc Pháp. Cả nhà chống thuyền sống lay lắt qua ngày trong các vùng đầm lầy
và trong các khu rừng ngập nước.
- Đành
phải đi về vùng U Minh hạ thôi, ông à!
Một
hôm má nuôi tôi thở dài, bàn với tía nuôi tôi như vậy. Bà ngồi trong mui thuyền
chật chội, nhìn ra những làn mưa trắng tuôn mù mịt xuống ngàn xanh, chậc lưỡi.
- Chỉ lo cho hai thằng bé. Dầm mưa dãi nắng
thế này, rủi chúng ốm đau nằm xuống thì lấy gì mà thang thuốc!
- Mười mấy năm trời, quen thuộc ở đây, tôi
không nỡ bỏ đi...
Tía nuôi