
n
rối, từ sau bếp chạy ra, vác một gộc cây đặt xuống cạnh bàn rượu, giọng lăng
xăng:
- Mời ông khách! Mời ông ngồi xuống đây!
Mùi thịt nướng từ trong bếp bay ra khét lẹt.
Và khói cũng từ trong cái bếp lò thấp thoáng sau quầy rượu cuồn cuộn bay ra, như
làn khói đốt đồng cỏ tháng tư.
- Cháy miếng thịt mất rồi!
Tôi vội kêu lên, và thản nhiên không chú ý
tới mọi người ngồi đó, cứ đi thẳng một mạch vào bếp. Tôi cầm cái que cời dập
bớt than, rồi trở gắp thịt đặt lên nướng phía bên còn chưa chín.
- Để đó cho qua, chú em!
Ông chủ quán chạy vào, vừa nói líu ríu bằng
giọng khen ngợi vừa với tay cầm chai rượu dựng bên cạnh lò. Tôi đáp cách bình
thản, nhưng cũng rất tự hào:
- Cháu giúp bác một tay, được mà!
Rồi tôi mỉm cười một mình, chợt nhớ tới
"thằng bé hầu rượu" trong quán dì Tư Béo. Ông cụ già bịt khăn lụa đỏ
đỡ lấy chai rượu trên tay chủ quán, rót đầy vào một cái bát lớn đặt giữa bàn mà
họ đã uống vơi gần quá nửa.
- Kính mời ông bạn! Làm một hớp cho ấm bụng.
Chẳng hay ông bạn từ đâu tới?
Tía nuôi tôi đáp, giọng từ tốn:
- Tôi là người vùng U Minh thượng... Giặc
Pháp đã vào tới đó. Nay lênh đênh phiêu giạt... Còn chưa biết về đâu.
Hai người đàn ông đầu cạo trọc đưa mắt nhìn
nhau. Tía nuôi tôi bưng bát rượu lên nhấp một hớp; chừng như đoán ra ý họ, ông
đặt bát rượu xuống bàn, nói chậm rãi:
- Phải, tôi là người U Minh thượng. Nhưng
nguồn cội tận xứ Tiền Giang kia. Thuở còn trẻ tráng, tôi cũng đã lặn lội nhiều
năm trong nghề hạ bạc. Nghèo như chiếc lá rụng xuống dòng sông, nước trôi tới
đâu mình theo tới đó. Bấy nay tôi theo nghề rừng, chẳng qua cũng vì mưu sinh
theo hoàn cảnh, chuyện đó có chi là lạ...
Người đàn ông thấp lùn tức thời đứng phắt
dậy, dang tay ra ôm tía nuôi tôi, cười ha hả:
- Vậy thì huynh ông neo lại khúc này, trở về
nghề cũ, chúng ta hiệp nhau làm ăn, được chứ?
Tía nuôi tôi cười cười, chưa đáp ra sao. Tôi
giúp ông chủ quán dọn thịt nướng ra bàn và gọi thằng Cò lên xem ông giết thịt
con kỳ đà. Tôi cứ chạy ra chạy vào, khi thì quạt lửa, khi thì lấy tí muối ớt,
khi thì rót thêm mỡ rái cá vào đĩa thịt tự tôi tìm thấy trong bếp và mang ra
bàn rượu. Tôi cảm thấy mình bận rộn nhưng vui vẻ như thằng bé hầu rượu trước
kia. Chẳng mấy chốc mà họ đã uống cạn hai lít rượu, thứ rượu ngon nhất mà ông
chủ quán bảo chỉ để dành riêng cho khách quen sành sỏi. Rượu vào thì lời ra. Họ
nói đủ thứ chuyện về sông nước, và trong câu chuyện đã bắt đầu xưng hô anh anh
chú chú cởi mở thân mật. Dường như ba ông khách rượu ấy và tía nuôi tôi là
những người bạn cũ, xa nhau lâu ngày, giờ mới tình cờ gặp lại vậy. Khi biết ông
bạn phương xa vừa tới có "bà nội tướng" đang thổi cơm dưới thuyền,
ông cụ già bịt khăn đỏ bèn trịnh trọng bước ra sàn cầu, chắp hai tay trước ngực
hướng vào mũi thuyền, sửa giọng kính cẩn:
- Chẳng mấy thuở được gặp anh Hai... Xin kính
mời chị Hai quá bước lên quán, dùng một chén rượu mọn với anh em chúng tôi.
Má nuôi tôi "cám ơn" và từ chối năm
lần bảy lượt không xong, đành phải đội khăn bước lên quán. Món thịt kỳ đà nấu
ca-ri nước cốt dừa cũng vừa bưng dọn ra bàn bốc khói thơm lừng. Cả gia đình
chúng tôi, ba ông phường săn kỳ dị và ông chủ quán lùn tịt cùng ngồi vào bàn,
dùng bữa cơm tối một cách hết sức vui vẻ. Cả con Luốc cũng có phần một bát thịt
to tướng trộn cơm nguội mà ông chủ quán đã có "nhã ý" dọn riêng cho
nó trước sàn cầu.
- Bao giờ giặc tấn công tới đây, chúng ta sẽ
liệu. Còn bây giờ, làm nghề cứ lo làm nghề. Còn phải nghĩ tới miếng sống chứ.
Tôi nói vậy, liệu có phải không chị Hai?
Người đàn ông cao lêu nghêu bắt đầu làm quen
với má nuôi tôi bằng câu mở đầu ấy. Người đàn ông thấp lùn vội nói tiếp theo:
- Ắt chị Hai vui lòng để anh Hai cùng đi làm
ăn với chúng tôi chứ?
Má nuôi tôi cầm bát lên tay, nhìn tía nuôi
tôi:
- Xin các chú hỏi ông nhà tôi. Chứ tôi là phận đàn bà!
Ông
chủ quán ngứa miệng, vung hai tay lên:
- Chị
Hai còn theo xưa quá. Người ta nói nhất vợ nhì trời mà!
Mọi
người đều cười, khiến ông chủ quán cứ xoay quanh hết nhìn người này đến nhìn
người khác, lắc la lắc lư ra vẻ đắc chí với câu pha trò của mình lắm. Không
biết có phải vì có mặt má nuôi tôi mà các ông già trở nên lịch sự, vui vẻ và hoạt
bát hẳn lên không? Ông cụ già bịt khăn đỏ hỏi má nuôi tôi một cách khoan thai:
- Ngày
xưa, chị Hai cũng theo nghề câu chứ?
Má
nuôi tôi lắc đầu:
- Tôi
sợ lắm. Chỉ có ông nhà tôi thôi. Tôi chỉ câu lòng tong cá chốt, chứ thứ đó tôi
sợ lắm!
Người
đàn ông cao lêu nghêu nhếch mép cười, bàn tay đưa lên gãi gãi cái đầu trọc nhẵn
thín:
- Nói
không phải phô phang với chị Hai và các anh tôi đây, chứ thuở mười ba mười bốn
tuổi, tôi đã theo ông nội tôi đi bắt cá sấu như bắt cá lóc rộng trong khạp vậy
thôi. Vào mùa khô, chúng tôi lội vào rừng cỏ, men theo những cái bàu giữa rừng
tìm cá sấu. Hồi đó, cá sấu còn nhiều lắm. Bàu nào cũng có. Không nhiều thì ít.
Tệ lắm cũng năm bảy con trở lên. Bà con quen gọi là ao cá sấu. Chọn được ao sấu
nào có nhiều sấu hoa cà rồi, chúng tôi mới phát sậy, phát cỏ rũ xuống phơi nắng
và