
ễn tả bằng câu ấy. Tất
nhiên, tôi chỉ nghĩ thầm trong bụng.
Tôi
tiếp tục giờ học, sau khi dạy hết các chữ tượng hình, tôi chuyển sang chữ
chuyển chú (là phương pháp dùng hai chữ Hán giải thích cho nhau với điều kiện:
chúng phải cùng chung bộ thủ và ý nghĩa thì tương đồng), rồi đến các từ đơn
giản. Tôi rầu rĩ nghĩ rằng, cũng là học ngoại ngữ, mà sao trình độ cách xa một
trời một vực như vậy! Nếu cứ tiếp tục thế này, có khi tiểu hòa thượng viết được
luận bằng tiếng Hán thì tôi vẫn còn đang ở giai đoạn học thuộc từ vựng Tochari
cũng nên. Càng hổ thẹn hơn nữa, Kumalajiba đã vận dụng thành thạo nguyên tắc
ghi phiên âm để chú âm cho các chữ Hán tôi vừa dạy, tuy không chính xác tuyệt
đối, nhưng mười phần thì cũng được tám, chín phần.
Có lẽ,
không bao lâu nữa tôi sẽ bị cho nghỉ hưu non thôi!
Lục lạc
lanh canh, đoàn người chậm rãi rong ruổi trên sa mạc ngút ngàn cát trắng. Vậy
là đã tám ngày trôi qua. Tôi quấn chặt khăn trùm đầu, quay lại phía sau, đưa
bốn ngón tay lên xếp hình ống kính máy ảnh, di chuyển qua các góc độ để lấy
nét. Trong khung cảnh tưởng tượng của tôi hiện ra một cảnh tượng tuyệt đẹp:
nắng vàng rực rỡ chiếu rọi lên hàng dài nối tiếp nhau đến vô tận những dấu chân
lạc đà in trên biển cát sáng lấp lóa. Một trận gió quét qua, hệt như biển khơi
dội trào từng đợt sóng nhỏ, làm cho những dấu chân trở nên mờ ảo trong gió cát.
- Tách!
Tôi
muốn định hình và lưu lại trong trái tim khung cảnh này mãi mãi.
- Cô
làm gì vậy?
- Không
có gì.
Tôi thu
tay lại, không thể nói với tiểu hòa thượng rằng tôi đã nuối tiếc như thế nào
khi không mang theo máy ảnh, nên chỉ thở dài than vãn:
- Những
viết chân trên cát sẽ nhanh chóng biến mất, hệt như cuộc đời ngắn ngủi của con
người vậy.
Tôi
ghìm dây cương và nhảy xuống. Quay trái ba vòng phải ba vòng, ngoáy đầu, lắc
hông, phải vận động một chút mới được, nếu không gân cốt tôi tê dại mất. Ngước
lên thấy Kumalajiba trên lưng lạc đà đang chăm chú nhìn mình, tôi cười:
- Nhưng
dù vậy tôi vẫn sẽ kiên trì bước từng bước vững chắc và lạc quan đi đến đích
cuối cùng.
Tôi nắm
dây cương, dắt lạc đà và rảo bước trên cát, tôi muốn lưu lại dấu ấn của tôi
trên sa mạc nghìn năm về trước này. Kumalajiba nở nụ cười tươi tắn, cũng nhảy
xuống và học theo tôi. Lát sau, hai chú lạc đà đã được những người hầu cận dắt
đi.
Được
một đoạn, chúng tôi ngoảnh lại nhìn, đôi hàng dấu chân in trên cát, kéo dài
thành hai đường thẳng song song. Tôi nảy ra ý tưởng, liền đề nghị tiểu hòa
thượng:
- Cậu
hãy đi lên phía trước.
Tiểu
hòa thượng hơi băn khoăn, nhưng vẫn ngoan ngoãn tiến lên trước. Tôi theo sau,
đặt chân mình lên những dấu chân của Kumalajiba. Cậu ta đi được một đoạn chợt
dừng bước, quay người lại. May sao tôi kịp đứng lại và bước sang bên, nếu không
chắc sẽ đâm sầm vào cậu ta mất.
- Lẽ ra
chúng ta là hai đường thẳng song song, dù đi bao xa cũng không bao giờ gặp
nhau, nhưng vì cơ duyên, hai đường song song đã hợp lại thành một.
Tám
ngày trước tôi đang ở một nơi cách nơi này hàng nghìn năm thời gian.
- Bởi
vậy, duyên số thật kỳ lạ!
- Tôi
thì nghĩ, tôi được gặp cô, đó là ý của Phật tổ.
Tôi
quay lại và bắt gặp ánh mắt tiểu hòa thượng, đôi mắt trong veo như làn suối, đó
là đôi mắt thuần khiết nhất mà tôi từng gặp trong suốt hai mươi ba năm qua. Vừa
định đáp lời, tôi bỗng thấy một bóng người từ phía xa đi tới. Lúc người đó lại
gần, tôi nhận ra đó là một hòa thượng khất thực, dáng vẻ khổ hạnh, khuôn mặt
dính đầy bụi cát, dắt bên mình một con ngựa gầy gò như chủ nhân của nó.
Kumalajiba vội vàng bước đến, ni cô xinh đẹp cũng nhảy xuống, ra lệnh cho đoàn
người dừng lại. Hai mẹ con chắp tay cung kính chào đón lão hòa thượng.
Họ mang
nước và thức ăn đến cho hòa thượng khất thực, vị hòa thượng nhận lấy và đặt vào
chiếc túi tả tơi khoác trên lưng, sau đó ba người bắt đầu cuộc chuyện. Lão hòa
thượng quan sát Kumalajiba hồi lâu, nói với cậu đôi câu, sắc mặt trầm buồn. Rồi
quay sang trao đổi với Jiba, hai người vừa nói chuyện vừa ngắm nhìn Kumalajiba,
vẻ mặt của tiểu hòa thượng bỗng trở nên âu sầu.
Một
lát, hòa thượng nói lời từ biệt, đi về hướng ngược lại với chúng tôi. Kể từ lúc
đó, mẹ con ni cô có vẻ rầu rĩ hơn trước.
Chúng
tôi leo lên lưng lạc đà đi tiếp. Tôi lặng lẽ thúc lạc đà đến bên Kumalajiba hỏi
chuyện:
- Này
tiểu hòa thượng, lão hòa thượng ấy nói gì với cậu thế?
Kumalajiba
suy nghĩ một lát rồi đáp:
- Thầy
nói, mẹ phải ở bên cạnh và bảo vệ tôi. Ngày sau tôi sẽ thành công trong việc
chấn hưng và phát triển Phật pháp, siêu độ vô số chúng sinh, công đức lớn lao
không kém Upagupta.
-
Upagupta là ai?
- Là vị
cao tăng nổi tiếng, thủy tổ của phái Thiền Tông Ấn Độ.
- Đại
sư thật đáng nể, ngài ấy thấy được cả tương lai sáng lạn của cậu. Tôi cũng tin
như vậy, chắc chắn cậu sẽ trở thành một vị cao tăng được nhiều người sùng kính.
Niềm
tin đó là thật, với trí tuệ siêu phàm như hiện nay, Kumalajiba chắc chắn sẽ nổi
danh trong thiên hạ. Có điều với lượng kiến thức ít ỏi về Tây vực, tôi không
đoán ra được cậu là nhân