
tôi vẫn không sao dỗ được nỗi hưng
phấn khi nãy xẹp xuống để nhường chỗ cho giấc ngủ. Nỗi nhớ nhà hằng đêm đã đi
đâu mất. Cứ nghĩ đến câu nói: “Cô sẽ làm được” trong lòng lại dâng trào một
niềm vui khôn tả. Tôi khe khẽ tự nhủ: Ngải Tình, cậu sẽ làm được!
Lúc
chuẩn bị thiếp đi tôi chợt nhớ ra “Sử ký” của Tư Mã Thiên phải đến tận thời Hán
mới xuất hiện, vậy là tôi đã làm lộ kiệt tác của Thái Sử Công. Tôi thật bất
cẩn. Cầu mong sao cậu ta không để tâm đến và cầu mong sao cậu ta đừng đi khắp nơi
tìm kiếm cuốn sách này.
Vào
buổi trưa của ba ngày sau đó, một ốc đảo xanh mướt xuất hiện trước mắt tôi. Bao
nhiêu ngày qua, tôi đã chán ngán với sắc vàng đơn điệu của mênh mông cồn cát,
hôm nay, được nhìn thấy sắc xanh ngút ngàn thế này, tôi hưng phấn đến độ nhảy
cẫng lên gào thét. Chứng kiến điệu bộ “hoang dại” ấy của tôi, Kumalajiba chỉ
biết lắc đầu thở dài rồi cười và cho tôi biết, nơi đây chính là Wensu.
Wensu,
địa danh này cậu ta đã nhắc đến trong ngày đầu gặp tôi. Nghe khá quen, chắc
chắn phải có âm tiếng Hán tương đương, nhưng tôi không nhớ ra.
Mải mê
lục tìm dữ kiện bộ nhớ, đoàn người đã đến cổng thành lúc nào mà tôi không hay.
Không gian tưng bừng âm nhạc đặc trưng vùng Tây Vực, những khúc điệu tươi vui
rộn rã. Một đội ngũ hùng hậu chỉnh tề nghênh đón chúng tôi.
Hai bên
đường có rất nhiều lán trại. Bên trong không có người, chỉ đặt một số tượng
Phật. Dựa trên trình độ điêu khắc mà tôi quan sát được, thì đó đều là những pho
tượng quý giá. Dân chúng ở hai bên đường đều đứng lên chào đón, từng chậu hoa
tươi được cung kính dâng lên đến trước mặt hai mẹ con tiểu hòa thượng. Hai
người chắp tay lễ tạ, đón hoa tươi mang đến rắc lên mình các bức tượng phật[5'>.
Trong
chuỗi nghi thức kỳ lạ đó, tôi chú ý đến người đàn ông dẫn đầu: khoảng bốn mươi
tuổi, thân hình cường tráng vạm vỡ, đầu để mái lửng, nhưng phía sau gáy lại tết
thành những lọn dài, rồi búi ngược lên đỉnh đầu và được quấn lại bởi một mảnh
khăn thêu kim tuyến. Người đó đội một chiếc mũ miện bằng vàng khắc hình long
phụng, khoác áo choàng đỏ có viền thêu hình thoi, đính châu báu, phía trước là
những hình tròn thêu chỉ vàng lấp lánh, ống chân thì... Đấy, tôi lại mắc bệnh
nghề nghiệp rồi, lúc nào cũng quan sát chi tiết những người đối diện như quan
sát một hiện vật nghiên cứu.
Tuy
không hiểu họ nói gì, nhưng tôi đoán đó là đoàn người ra nghênh đón khách quý,
gồm các thành viên của hoàng thất và người đàn ông khoác trên mình trang phục
quyền quý kia chính là nhà vua. Tuy ni cô xinh đẹp Jiba cũng được chào đón nồng
hậu và cung kính, nhưng rõ ràng đối tượng của nghi thức nghênh tiếp hết sức
long trọng này không ai khác, chính là Kumalajiba.
Từ lâu
tôi đã nghĩ rằng Kumalajiba không phải một nhà sư tầm thường, nhưng cậu ta mới
mười ba tuổi, làm sao đã có thành tựu gì xuất chúng. Chắc hẳn cậu ta còn có
thân phận gì khác ngoài là một nhà sư, ví như là con cháu nhà vua chẳng hạn.
Không lẽ cậu ấy là hoàng tử? Trước khi đắc đạo, Phật Thích Ca cũng từng là
hoàng tử đấy thôi.
Chúng
tôi được sắp xếp ở lại trong một cung điện hoa lệ (mà không phải tại một ngôi
chùa nào đó như tôi nghĩ). Tuy nói là hoa lệ, nhưng không thể so sánh với cung
điện ở Trung Nguyên được. Tây Vực vốn là vùng khô hạn, nhà ở được xây cất rất
đơn sơ với vật liệu chính là gỗ và đất sét và mái nhà là kiểu mái bằng. Nhưng ở
đây, tường nhà làm bằng đất sét đã được coi là xa hoa rồi. Thông thường chỉ có
quan lại, đền chùa miếu mạo và hoàng cung mới được xây dựng như vậy.
Nơi
chúng tôi nghỉ ngơi là một dinh cơ rộng lớn với năm gian phòng. Vị quốc vương
kia còn cử thêm mười người hầu đến phục vụ chúng tôi. Tôi được ở riêng một
phòng, Jiba cũng dành cho tôi một người hầu nữ. Yêu cầu đầu tiên mà tôi đưa ra
là: tôi muốn tắm rửa.
Những
thứ mà các cuốn tiểu thuyết thường nhắc đến như: suối nước nóng, hoa thơm, chậu
tắm cỡ lớn, ở đây đều không có. Có thể nói là điều kiện sinh hoạt khá nghèo
nàn, xà bông ở đây còn lâu mới thơm bằng xà bông của thế kỷ XXI. Nhưng tôi vẫn
cảm thấy vô cùng sảng khoái, vì sau hơn mười ngày ròng rã dầm mình trong gió
cát sa mạc, cuối cùng tôi đã được tắm gội sạch sẽ.
Giờ học
buổi tối, không kìm được sự tò mò, tôi lại gợi ý tiểu hòa thượng kể về xuất
thân của cậu, nhưng Kumalajiba bình thản đến mức lạnh lùng, trả lời rằng:
- Những
thứ như mắt, mũi, tai, miệng, lưỡi, thân thể hay ý thức đều không tồn tại thực
sự, huống hồ là tên tuổi và xuất thân.
Lại là
thuyết duy tâm của đạo Phật, trả lời như vậy cũng bằng không. Tôi giận dỗi:
- Vâng
vâng vâng, tứ đại giai không, mọi thứ đều không tồn tại. Trương Sinh nằm mơ hóa
thành hồ điệp, tỉnh lại không biết rốt cuộc là mình mơ hóa thành hồ điệp hay hồ
điệp hóa thành mình, thế được chưa!
Điển cố
Trương Sinh nằm mơ hóa thành hồ điệp mà tôi vô tình thốt ra khơi gợi hứng thú
đặc biệt đối với tiểu hòa thượng, cậu nằng nặc đòi tôi kể câu chuyện đó. Đành
vậy:
- Thời
Xuân Thu ở Trung Nguyên có một triết gia tên Trương Châu. Một hôm, ông nằm mơ
thấy mình hóa thành bươm bướm,